Mục lục
·
2 Nét đặc trưng
o 2.1 Mái nhà
o 2.2 Cột
o 2.3 Chạm khắc
o 2.4 Thước tầm
·
3 Một số hình ảnh tham khảo và so sánh
o 3.1 Việt Nam
o 3.2 Trung Quốc
o 3.3 Nhật - Hàn
o 3.3 Nhật - Hàn
·
4 Tên gọi các cấu kiện trong thức kiến trúc cổ Việt Nam
o 4.1 Các thành phần kiến trúc
·
Hình ảnh ban đầu
Quy thức kiến trúc cổ Việt Nam là một trật tự (order)
hoặc là những quy định thống nhất về kích thước, các tương quan tỷ lệ giữa các
chi tiết, thành phần kiến trúc trong một công trình kiến trúc theo phong cách cổ điển
của Việt Nam với những quy tắc riêng
biệt và điển hình đã được người
Việt sử dụng trong lịch
sử Việt Nam. Nó được đánh giá là thể hiện tài hoa, tri thức và
truyền thống trong kiến trúc cổ Việt Nam.
Phương đình Đền Đô ởBắc Ninh
Đình Chợ Vân, một công
trình tiêu biểu theo quy thức Việt Nam cổ truyền
Kiến trúc cổ Việt Nam còn lại không nhiều và
không phải là những công trình tiêu biểu nhất. Tinh hoa của kiến trúc cổ Việt
Nam đã bị chôn vùi sau các cuộc tàn phá triệt hạ văn hóa phương Nam của Trung
Hoa và quy luật thời gian (đa
số những công trình cổ còn hiện hữu, có niên đại từ thời nhà
Hậu Lê đến thời nhà Nguyễn). Người
ta hiện còn biết rất ít (và cũng nhiều điều người ta chưa biết gì) về kiến trúc
các cung điện thời Lý-Trần, được xem là
thời kỳ văn minh nhất của Đại Việt và được sử sách khen ngợi
là trước đó chưa hề có, sánh ngang cùng Trung Hoa phương Bắc. Những nền đất còn
lại của các ngôi chùa thời kỳ này như chùa
Phật Tích, chùa Dâu... có thể
chứng minh được những lời này. Tuy vậy, những gì còn lại trên tại Việt Nam ngày
nay cũng để người ta biết cách thức xây dựng trong dân gian và những quy định
trong cấu tạo kiến trúc thời xưa, được gọi là "thức kiến trúc cổ Việt
Nam".
Khi nói về kiến trúc cổ Việt Nam, nhiều
người lầm tưởng nó là sao bản của kiến trúc Trung Hoa. Nhưng thật ra kiến trúc
cổ truyền Việt Nam khác nhiều so với hệ kiến trúc Trung Hoa và Nhật Bản, nhất là về phần cấu tạo mái cong.
Hai nước Hoa và Nhật này khá tương đồng nhau vì dùng phương pháp "chồng
đấu tiếp rui" trong khi Việt Nam dùng "tàu đao lá mái" để cấu
tạo mái cong.[1]
Kiến trúc cổ Việt Nam cũng lấy gỗ làm vật liệu xây dựng cơ
bản và tạo đặc trưng riêng cho nền kiến trúc của mình, tương phản với kiến trúc
chuộng dùng gạch hay đá của nhiều vùng khác trên
thế giới.
Nét đặc trưng
Thức kiến trúc cổ Việt
Nam: dốc mái thẳng, khi xuống gần diềm mái hiên thì dùng bảy
Vì kèo truyền thống với câu đầu nối hai cột cái (hình trên), chồng rường xếp trên xà nách (giữa), và chi tiết chạm khắc (dưới)
Góc tầu đao mái chùa Hoa
Yên trên núi Yên Tử
Có 3 nét đặc trưng của kiến trúc cổ Việt
Nam làm ta phân biệt trong nền kiến trúc gỗ cổ phương Đông:
·
Dốc mái thẳng
·
Dùng bảy, kẻ đỡ mái hiên
·
Cột mập to, phình ở phần giữa thân dưới
Nếu so sánh với thức kiến trúc cổ Trung Quốc sẽ thấy được sự khác
nhau:
·
Dốc mái võng xuống
·
Đỡ mái hiên bằng hệ đấu-củng (còn gọi là
"con sơn chồng đấu" hoặc "chồng đấu tiếp rui")
·
Cột thanh mảnh, tròn đều
Mái nhà
Tàu đao quật ở góc mái,
gắn thêm con náp và hàng gạch hoa chanh dọc bờ guột, chùa Dận, Bắc Ninh
Triền mái của kiến trúc cổ Việt Nam thẳng,
không cong, nhưng hếch lên ở góc mái tạo sự thanh thoát, lấy cảm hứng từ mũi
thuyền của nền văn hóa sông nước. Phần mái lớn và thường chiếm tới 2/3 chiều
cao mặt đứng công trình, nhất là đối với mái đình. Góc mái tức
"tàu đao" làm cong uốn ngược, còn được gọi là đao quật. Trong khi đó
kiến trúc Trung Hoa hay Nhật Bản tuy cũng mái cong chỉ hơi hếch ở góc mái còn
thân mái võng xuống, dốc nhiều ở đỉnh rồi xoải dần khi xuống diềm mái. Ngói lợp mái truyền thống Việt
Nam là ngói mũi hài còn gọi là ngói vẩy rồng trong khi ngói lợp Trung
Hoa là ngói âm dương hay ngói ống.
Trang trí trên mái cổ thường có các phần
đặc trưng như những con giống gắn trên đầu đao, trong đó con giống luôn là hình
tượng thể hiện tinh thần ngôi nhà, được làm từ đất nung hanh vữa truyền thống.
Tiếp theo là các bờ nóc có đặt gạch hoa chanh, đỉnh mái gắn con kìm ở hai đầu bờ nóc, con sô
ở chỗ bờ quyết (bờ guột), con náp, hay lạc long thủy quái. Khu đĩ thường để
trống thông thoáng và có chạm yếm trang trí gọi là vỉ ruồi.
Đỡ mái hiên bằng kẻ, hay bảy, một thanh
chéo đỡ mái hiên vươn ra bằng nguyên tắc đòn bảy rất hay. Không dùng hệ
đấu-củng rất nhiều chi tiết như Trung Hoa.
Cột
Cột là phần đỡ chính của công trình, toàn
bộ khối lượng công trình đều đặt lên các cột. Cột tròn và to mập, phình ở giữa.
Tiết diện của cột thường là cột thân tròn nhưng cũng có khi dùng
cột vuông.
Sức nặng công trình được đặt lên cột, cột
đặt lên các đế chân cột chứ không chôn xuống nền và chính sức nặng của công
trình làm công trình ổn định và vững vàng.
Căn nhà được xây dựng theo các vì nhà, sau
đó các vì được dựng lên và nối với nhau bằng các xà ngang và xà ngưỡng tạo
thành một hình hộp, sau đố là lợp mái và làm tường nhà. Vì nhà chính là đơn vị
cơ bản khi nói đến kích thước ngôi nhà, giữa hai vì gọi là "gian". Vì
nhà cũng là đặc trưng cho lối kiển trúc theo từng địa phương và từng thời kỳ,
tuy rất trung thành với thức kiến trúc cổ Việt Nam.
Chạm khắc
Trong
thức kiến trúc cổ Việt Nam chạm trổ là phần rất quan trọng, nó thể hiện tinh
thần công trình. So với kiến trúc Trung Hoa thích vẽ hình và sơn màu sặc sỡ,
kiến trúc cổ Việt Nam thường để mộc màu gỗ hay quét sơn ta bảo vệ có màu nâu, thích
chạm trổ.
Thước tầm
Trong thức kiến trúc cổ Việt Nam, tất cả
các kích thước tính của công trình đều dựa theo "thước tầm", một cây
thước được tính theo kích thước cơ thể gia chủ. Đây là một điều độc đáo, theo
cách phân tích cái đẹp tỷ lệ thì thước tầm là modulor của kiến trúc cổ Việt Nam
như modulor của kiến trúc Hy Lạp, tạo ra vẻ đẹp hình học tinh
tế như độ dốc mái, tỉ lệ chiều cao mái với phần chân cột, sự thích hợp với
người gia chủ.
Một số hình ảnh tham khảo và so sánh
3.1 Việt Nam
3.1 Việt Nam
Chi tiết dáng cột chuẩn
Phối cảnh góc bộ khung
Đình Bảng
Chùa Một Cột (Hà Nội)
Cổng Ngọ Môn (Huế)
Chùa Bái Đính (Ninh Bình)
Khuê Văn Các (Hà Nội)
3.2 Trung Quốc
Cổng Ngọ Môn (Huế)
Chùa Bái Đính (Ninh Bình)
Khuê Văn Các (Hà Nội)
3.2 Trung Quốc
Kiến trúc cổ điển Trung
Hoa. Lưu ý mái Trung Hoa mái võng xuống không dùng bảy
Cố Cung (Bắc Kinh)
Cố Cung (Bắc Kinh)
Khổng Miếu, Khổng Phủ, Khổng Lâm (Sơn Đông)
3.2 Nhật - Hàn
Chùa Horyuji (Nara) Nhật
Chùa Yakushi (Nara) Nhật
Thành Himeji (Hyogo) Nhật
Đền Itsukushima (Hiroshima) Nhật
Nhân Chính điện (Hàn)
Khu di tích lịch sử Gyeongju (Hàn)
Haeinsa (Nam Gyeongsang) Hàn
Cố Cung (Bắc Kinh)
Cố Cung (Bắc Kinh)
Vạn Lý Trường Thành
Khổng Miếu, Khổng Phủ, Khổng Lâm (Sơn Đông)
3.2 Nhật - Hàn
Chùa Horyuji (Nara) Nhật
Chùa Yakushi (Nara) Nhật
Thành Himeji (Hyogo) Nhật
Đền Itsukushima (Hiroshima) Nhật
Nhân Chính điện (Hàn)
Khu di tích lịch sử Gyeongju (Hàn)
Haeinsa (Nam Gyeongsang) Hàn
Tên gọi các cấu kiện trong thức kiến trúc cổ Việt Nam
Chạm khắc trên kẻ bảy, đình
Thổ Tang, Vĩnh Phúc
Khung nhà phân không gian nhà thành các
gian nhà, thường có các bộ phận sau:
·
Cột là kết cấu đứng chịu nén,
thường có các loại cột:
·
Cột cái: cột chính của nhà đặt ở
hai đầu nhịp chính tạo chiều sâu cho gian giữa. Nối hai cột cái là câu đầu.
·
Cột quân hay cột con: cột phụ ngắn hơn cột
cái, nằm ở đầu nhịp phụ hai bên nhịp chính. Khác biệt chiều cao của cột cái và
cột con tạo ra độ dốc của mái nhà. Xà nách nối cột con với cột cái.
·
Cột hiên: nằm ở hiên nhà, phía
trước, ngắn hơn cột con. Kẻ bảy nối cột con và cột hiên.
·
Xà là các giằng ngang chịu
kéo, liên kết các cột với nhau, gồm có các loại xà nằm trong khung và các loại
xà nằm ngoài khung vuông góc với khung. Xà nằm trong khung, thường đặt ở cao độ
đỉnh các cột quân để liên kết được cả cột cái và cột quân, gồm:
·
Xà lòng, tức câu đầu hay chếnh: liên kết các cột cái
của khung;
·
Xà nách hay thuận: liên kết cột quân vào
cột cái, trong khung.
·
Kẻ là các dầm đơn đặt theo
phương chéo của mái nhà, gác lên các cột bằng liên kết mộng, thường có các
loại kẻ sau:
·
Kẻ ngồi loại kẻ gác từ cột cái
sang cột quân, trong khung;
·
Kẻ hiên gác từ cột quân sang cột
hiên, trong khung. Một phần kẻ hiên được kéo dài đâm xuyên qua cột hiên để đỡ
phần chân mái.
·
bảy hay bảy hậu hoặc bảy
hiên: là dầm nằm trong khung liên kết vào cột quân phía sau nhà, đỡ phần mái
vẩy phía sau. Đối với nhà ở thì tiền kẻ, hậu bảy. Đối với các công trình
công cộng như đình làng, thường bốn mặt xung quanh đều có hiên thoáng không có
cột hiên, nên thường dùng bảy hiên.
·
Câu đầu là dầm ngang chính đặt
trên cùng, khoá các đầu trên của các cột cái trong khung (gác lên các cột cái).
·
Con rường hay chồng rường là các đoạn gối đỡ mái
dạng dầm gỗ hộp để đỡ hoành mái, được đặt chồng lên nhau. Chiều dài của chúng
thu ngắn dần cân theo chiều vát của mái, càng lên cao các con rường bên trên
càng ngắn. Ở vì nóc các con rường nằm chồng lên câu đầu.
·
Con lợn còn gọi là rường bụng lợn: là con rường trên cùng,
gối lên con rường bên dưới qua hai đoạn cột ngắn gọi là trụ trốn, và làm nhiệm vụ đỡ xà
nóc (thượng lương). Bên dưới rường bụng lợn (giữa hai trụ trốn) là ván lá đề thường để điêu
khắc trang trí. Con lợn có thể
được thay bằng giá chiêng.
·
Rường cụt là loại rường nằm ở vì
nách (giữa cột cái và cột quân), chúng nằm chồng trên xà nách, chúng cũng đỡ
hoành và vẫn thu dần chiều dài khi lên cao theo độ dốc mái.
Các loại xà nằm ngoài
khung gồm có:
·
Xà thượng liên kết đỉnh các cột
cái; xà này song song với chiều dài của nhà.
·
Xà hạ hay xà đại, liên kết các
cột cái tại cao độ đỉnh cột quân, gần sát vị trí liên kết xà lòng, xà nách vào
cột cái. Xà này cũng chạy song song với chiều dài của nhà.
·
Xà tử thượng (xà trên của cột con):
liên kết các cột quân của các khung ở bên trên.
·
Xà tử hạ (xà dưới của cột con):
liên kết các cột quân của các khung ở bên dưới, tại mức độ cao ngay trên hệ cửa
bức bàn.
·
Xà ngưỡng nối các cột quân ở vị trí
ngưỡng cửa. Xà này đỡ hệ thống cửa bức bàn.
·
Xà hiên liên kết các cột hiên của
các khung.
·
Thượng lương, còn gọi là đòn dông hay Xà nóc đặt trên đỉnh mái.
Các kết cấu mái:
·
Hoành là các dầm chính đỡ mái
đặt nằm ngang theo chiều dài nhà, vuông góc với khung nhà.
·
Dui hay rui là các dầm phụ trung
gian, đặt dọc theo chiều dốc mái (trực giao với hoành), gối lên hệ thống hoành.
·
Mè là các dầm phụ nhỏ, đặt
trực giao với dui, song song với hoành, gối lên hệ dui. khoảng cách giữa các mè
là nhỏ nhất, vừa đủ để lợp ngói. Việc sử dụng hệ kết cấu hoành - dui - mè, nhằm
phân nhỏ nhịp của kết cấu đỡ mái thành hệ lưới vừa đủ để lát lớp gạch màm và
lợp ngói bên trên.
·
Gạch màn là một loại gạch lá nem
đơn bằng đất nung, có tác dụng đỡ ngói đồng thời tạo độ phẳng cho mái, chống
thấm dột và chống nóng. Gạch màn ngồi trực tiếp trên lớp mè.
·
Ngói mũi hài hay còn gọi là ngói ta hay ngói vẩy rồng, bằng đất nung, trực
tiếp chống thấm dột và chống nóng, lợp trên lớp gạch màn và cũng có thể có lớp
đất sét kẹp giữa.
Các chi tiết kiến trúc
khác:
·
Cửa bức bàn
·
Con tiện
·
Dạ tàu
·
Đầu đao
Căn nhà Việt cổ truyền có
thể làm theo:
·
hình thức hai mái, hai đầu hồi bít đốc,
·
hay theo hình thức bốn mái, với hai mái phụ
hai đầu hồi gọi là hai chái nhà. Mỗi chái nhà gồm có một hàng cột quân (có thể
thêm một hàng cột hiên), các hàng cột này xoay vuông góc với các hàng cột trong
các gian chính.
·
hoặc hình thức 8 mái chồng diêm.
·
phương đình 1 gian chính giữa, bốn xung
quanh hệ cột quân đẳng hướng;
·
nhà 3 gian;
·
nhà 5 gian hay nhà 3 gian 2 trái;
·
nhà 7 gian hay nhà 5 gian 2 trái;
·
nhà 9 gian hay nhà 7 gian 2 trái.
Các thành phần kiến trúc
Cửa và cửa sổ trong căn nhà cổ truyền
là nơi không gian trong và ngoài tiếp giáp nhau. Nói chung thì cửa ra vào khá
lớn, có khi không có cánh cửa mà để ngỏ, chỉ buôngrèm hoặc có tấp liếp che. Nếu gắn cánh cửa thì
có thể dùng "cửa bức bàn" bằng ván kín. Cầu kỳ hơn thì dùng
cửa "thượng song hạ bản" tức là phía trên chấn song, phía dưới làm gỗ
kín. Ngưỡng cửa khá cao, người ra vào phải giơ chân bước qua.
Cửa sổ thì tương đối nhỏ so với cửa ra vào../.
Cửa sổ thì tương đối nhỏ so với cửa ra vào../.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét