Thứ Tư, 9 tháng 7, 2014

NHIẾP ẢNH SỐ TOÀN TẬP - PHẦN 2

NHIP ẢNH SỐ TOÀN TẬP
(sưu tầm)

Mục lục:

NHIP ẢNH SỐ TOÀN TẬP - PHẦN 1
I, Overture

II, Máy ảnh số và nhiếp ảnh số
II-1.        Chọn máy ảnh
II-2.        Có những gì trong một dCam?
II-3.        Thẻ nhớ: không còn bí ẩn
II-4.        Sự khác biệt giữa máy ảnh số và máy ảnh cơ
II-5.        Xsync, Hsync, Exposure time, Flash photography
II-6.        Kính lọc

III, Kỹ thuật chụp ảnh
III-1.      Kỹ thuật căn bản
III-2.      Nguyên tắc chụp ảnh
III-3.      Độ nét sâu của trường ảnh
III-4.      Tốc độ chụp ảnh
III-5.      Các chế độ đo sáng
III-6.      Các hiệu chỉnh khác

IV, Ngôn ngữ nhiếp ảnh
IV-1.     Less is more
IV-2.     Tương phản trong Nhiếp ảnh
IV-3.     Quy tắc bố cục tranh phong cảnh
IV-4.     Bố cục ảnh
IV-5.     Yếu tố phụ trong bố cục
IV-6.     Đường nét trong bố cục
IV-7.     Bố cục và sáng tạo
IV-8.     Các yếu tố hình họa của hình ảnh
IV-9.     Những quy tắc, định luật Nhiếp ảnh
-----------------------------------------------
NHIP ẢNH SỐ TOÀN TẬP - PHẦN 2

V, Các thể loại nhiếp ảnh thông dụng
V-1.       Chụp ảnh chân dung
V-2.       Ánh sáng trong ảnh chân dung
V-3.       Chụp ảnh phong cảnh
V-4.       Chụp close up và ảnh hoa
V-5.       Chụp ảnh báo chí

VI, Xử lý ảnh
VI-1.     Hiểu thêm v các thông số của ảnh
VI-2.     RAW vs JPEG
VI-3.     Kỹ thuật chuyển ảnh mầu sang đen trắng
VI-4.     Kỹ thuật xử lý ảnh Đen Trắng trong buồng tối
VI-5.     Tối ưu ảnh trước khi up lên site
VI-6.     Làm border ảnh bằng Photoshop và vấn đ giữ exif
VI-7.     Khắc phục Out nét
VI-8.     Cứu ảnh bị xóa trên thẻ nhớ
VI-9.     In ảnh tại Labs

VII, Mẹo vặt và hỏi đáp
VII-1.        Kinh nghiệm chụp cho người mới bắt đầu
VII-2.        Tạo hiệu ứng sao cho đèn đêm mà không cần kính lọc
VII-3.        Hiệu ứng zoom
VII-4.        Mẹo đo sáng thay thế
VII-5.        Bồi đèn trong chụp tốc độ chậm
VII-6.        Kính lọc màu cho đèn và ống kính:

-----------------------------------------------
NHIP ẢNH SỐ TOÀN TẬP - PHẦN 3

VIII, Kinh nghiệm xem ảnh
VIII-1.     Nghệ thuật xem ảnh
VIII-2.     Tăng giảm bù trừ sáng (EV+/-)
VIII-3.     Bù trừ sáng (EV)
VIII-4.     Kinh nghiệm đo sáng
VIII-5.     Đặt tên cho ảnh
VIII-6.     Bóng đổ - bóng ngả - bóng đối xứng - bóng khối
VIII-7.     Tone màu?
VIII-8.     Chế độ chụp
VIII-9.     Lấy nét - chế độ màu
VIII-10.  AEB

IX, Kinh nghiệm chụp ảnh
IX-1.     Chụp cảnh hoàng hôn
IX-2.     Cỡ ảnh, kỹ thuật chụp đêm
IX-3.     Chụp ảnh lưu niệm
IX-4.     Chụp ảnh khi trời mưa
IX-5.     Chụp ảnh khi trời gió
IX-6.     a đêm và những tia chớp
IX-7.     Chụp ảnh trong sương mù
IX-8.     Chụp ảnh khi tuyết rơi
IX-9.     Chụp ảnh biển
IX-10.  Chụp ảnh chân dung
IX-11.  Chụp pháo hoa
IX-12.  Chụp ảnh nội thất
IX-13.  Căn chỉnh màn hình máy tính của bạn

X, Nhiếp ảnh - Lý luận phê bình
X-1.       So sánh Canon và Nikon
X-2.       Noise – vỡ hạt ảnh
X-3.       Xử lý bụi bám trên sensor
X-4.       Khẩu độ sáng
X-5.       Nghệ thuật và sự dung tục
X-6.       Hệ số nhân tiêu cự
X-7.       Ảnh đen trắng trong thời đại số
X-8.       Bố cục - hội họa và nhiếp ảnh?

XI, Thông tin v sách

---------------------------------


NHIP ẢNH SỐ TOÀN TẬP - PHẦN 2

V, CÁC THỂ LOẠI NHIẾP ẢNH THÔNG DỤNG

V-1.   CHỤP ẢNH CHÂN DUNG:
1.Khái niệm về ảnh chân dung
Cũng như các ngành văn học và nghệ thuật khác, ngành nhiếp ảnh đặc biệt quan tâm đến việc miêu tả con người, bằng ảnh, thông qua cái máy ảnh kết hợp với việc điểu khiển ánh sáng và sử dụng hoá chất ảnh.
Nhiếp ảnh là một nghệ thuật có tác dụng qua lại rất mật thiết giữa nội dung và hình thức, giữa tư tưởng và kỹ xảo. Trong nhiếp ảnh, ảnh chân dung là thể loại có sức thuyết phục đặc biệt, quan trọng bậc nhất của ảnh báo chí cũng như ảnh nghệ thuật, nên đòi rất nhiều công phu.
Nếu chụp ảnh chân dung chỉ là ghi lại hình ảnh một cách vô thưởng vô phạt, cốt làm sao ảnh cho sáng sủa, rõ nét, kể cũng chẳng có gì là khó vì chỉ cần hướng dẫn cách sử dụng máy và một số quy tắc sử dụng ánh sáng, đặt chỉ số ống kính, chỉ cần dăm phút thôi là ai cũng có thể chụp được. Nhất là ngày nay, những máy hiện đại, mọi dữ liệu đã được tính trước. Nhà nhiếp ảnh chỉ việc bấm máylà xong.
Một bức ảnh chân dung nghệ thuật vừa lột tả được cái vẻ bề ngoài của bộ mặt, vừa biểu hiện được thế giới nội tâm (tức tâm tư tình cảm của người được chụp) là một việc rất khó khăn, và càng khó khăn hơn nữa đối với nghệ sĩ nhiếp ảnh Việt Nam là phải thể hiện được hình ảnh của con người theo tâm hồn và phong cách Việt Nam đương đại.
Nghệ thuật và Kỹ thuật nếu không điêu luyện thì khi chụp không diễn tả được mục đích, không làm nổi bật được cái chính giữa, các mảng, chi tiết, rối ren lộn xộn, khó làm xúc động người xem, không mang đến cho người xem một tác động về tâm tư tình cảm và ý suy nghĩ, trong đó kể cả sự cảm thông với trạng thái người cầm máy nữa. Chụp ảnh chân dung là đi vào một trong những lĩnh vực khó nhất của nghệ thuật miêu tả, trong đó, tài năng của người cầm máy được thử thách rất học búa, khiến nhiều tay nghề đã từng phải “nếm” những thất bại chua cay. Đã có không ít tay nghề đeo đẳng ống kính từ buổi thiếu thời đến độ tóc đã hoa râm mà vẫn chưa chụp được bức chân dung nào có giá trị. Tuy nhiên, vẫn có người chỉ mới bước vào nghề với thời gian rất ngắn đã có nhiều bức ảnh đạt đến mức độ khiến mọi người phải khao khát.
Tóm lại, trong cái thể loại nhiếp ảnh, không có phương pháp biểu hiện nào hấp dẫn có ý nghĩa mạnh mẽ bằng phương pháp biểu hiện con người. Muốn nhận rõ sự phong phú và nhạy bén, phát hiện ra cái đẹp điển hình của con người ngày nay, phải tự nâng cao vốn sống, trình độ nhận thức, không chỉ ỷ lại, tự hào về kỹ thuật, mà điều quan trọng là nhờ lòng tin và niềm say mê hứng thú, mới đạt được những hình ảnh chân thật và nên thơ.

2.Thế nào là một bức chân dung giống ?
Tuy ảnh là một công cụ khoa học,nhưng vì khi chụp và làm ảnh còn có nhiều nguyên nhân khác tác động vào, khiến kiểu ảnh khó thuần nhất, thậm chí còn sai lệch khác hẳng đối tượng, nên đã nảy ra vấn để giống và không giống, nhất là trong lĩnh vực ảnh chân dung.
Những nguyên nhà là trình độ kỹ thuật của con người và chất lượng của phương tiện sử dụng.
Tuy hai nguyên nhân kể trên có thể khắc phục được để sao chép ra những bức ảnh y hệt nguyên hình cảnh vật hoặc con người đã xuất hiện trước ống kính, nhưng đối với ảnh nghệ thuật, quan niệm về cái giống khác hẳn với sự rập khuôn máy móc.
Từ khi nhiếp ảnh thâm nhập cuộc sống và đã trở thành công cụ phục vụ đắc lực cho mọi lĩnh vực trong xã hội, ảnh được hình thành ra nhiều thể loại theo mỗi yêu cầu và tác dụng khác nhau.
Đối với các loại ảnh phục vụ cho việc nghiên cứu, ghi chép tư liệu thì cái giống của ảnh hoàn toàn đơn giản, không được thêm bớt, sáng tạo, nhưng đối với ảnh nghệ thuật có tác dụng cải tạo, khích lệ cuộc sống bằng cách phản ánh cho con người nhận thấy mọi vẻ đẹp của cuộc sống, nhất là những cái hay cái đẹp của con người - chủ nhân của sự sống - bởi vậy, người chụp ảnh nghệ thuật phải biết chọn, gạn lọc những đường nét điển hình, đặc sắc nhất trong từng vẻ đẹp và kết hợp vào đó là nhiệt tình sáng tạo cho nó có vẻ đẹp hấp dẫn hơn, miễn sao không bịa đặt giả tạo làm biến đổi hình thái hiện thực.
Giống và không giống đối với ảnh chân dung, chủ yếu là tập trung vào khuôn mặt con người hiện ra trong ảnh, mà đường nét tiêu biểu dễ xác nhận là đôi mắt, cái miệng và một số chi tiết nằm trong hình thể của bộ mặt; và dù nhà nhiếp ảnh có sáng tạo, miêu tả theo kiểu cách nào thì những nét cơ bản của gương mặt, cái miệng, cặp mắt vẫn khiến người xem ảnh dễ dàng nhận ra vẻ mặt quen thuộc như thực tế, không thể lầm người này với người khác, đó là một bức chân dung giống, mặc dù sự thật hình ảnh đã hiện ra duyên dáng hơn hẳn con người bằng da bằng thịt! Giống như thế có phải là sai sự thật không? Vì sao vậy?
Nghệ thuật tạo hình trong nhiếp ảnh cho phép ta giấu bớt những đường nét không mấy đẹp đẽ vào bóng tối và nâng vẻ đẹp lên mức độ hoàn mỹ cần thiết, nhưng không cho phép bất cứ thủ pháp nào làm thay đổi hiện thực khách quan của hình ảnh.
Không phải vì điểm tô thêm đẹp mà cố tình làm sai cả vẻ tự nhiên. Trừ những trường hợp đặc biệt cần sử dụng kỹ xảo Lg ghép để phục vụ cho mục đích nào đó, ảnh vẫn là một nghệ thuật phản ánh hiện thực cụ thể, không thể áp dụng bất cứ hư cấu nào theo kiểu hội hoạ.
Đối với ảnh tin tức báo chí tuyệt nhiên không được Lg ghép cảnh vật này sang cảnh vật khác.
Có thể dùng cách chiếu sáng làm nổi bật nét tươi vui ánh lên trong khoé mắt và mọng lên những vành môi, duyên dáng thướt tha thêm nơi mái tóc, nhưng nếu sửa chữa thêm từ ảnh dịu hiền thành sắc sảo, cặp môi dày hoá mỏng, mái tóc chất phác thành yểu điệu lẳng lơ... là lạm dụng và như vậy làm ảnh mất giống, sẽ trở thành vô giá trị.

3. Ăn ảnh là gì ?
Như trên ta đã xác định rõ là bất kể đối tượng nào được ống kính thu hình đều mong ảnh đẹp, và ngay chính bản thân những người dùng máy ảnh cũng chẳng ai lại muốn tác phẩm của mình bị đối tượng không ưng ý hoặc người xem chê bai. Nhưng bước vào thể hiện loại ảnh chân dung thường dễ xảy ra hiện tượng như sau:
Có những đối tượng nhìn ngắm ở thân hình và khuôn mặt chẳng thấy nổi bật vẻ gì là đẹp, mà được ống kính thu hình ở bất kỳ trường hợp nào, hoàn cảnh nào, điều kiện nào đều thấy ảnh rất đẹp, không những ảnh rất giống từ đặc điểm hình thể đến phong cách mà còn thể hiện đầy đủ cả nội tâm, có khi lại đẹp hơn, chân thực vì nó mang tính chất điển hình.
Nhưng ngược lại, có những đối tượng thuộc vào loại đẹp cả người lẫn nét, khuôn mặt và thân hình cân đối, nổi bật nhiều đặc điểm, ưa nhìn mà chụp ra ảnh thì lại chẳng thấy một nét nào hấp dẫn khiến các tay cầm máy rất vững cũng thấy khó khăn, công phu xoay sở đủ cách may ra mới thể hiện được kiểu ảnh ưng ý.
Kể cả trong giới nhiếp ảnh và đông đảo quần chúng yêu thích ảnh đều khẳng định hiện tượng này là do vấn đề "ăn ảnh" rồi dựa vào những hiện tượng đã xảy ra để suy diễn thành nhiều quan niệm như:
- Người nào có vẻ ưa nhìn, có thân hình cân đối, nét mặt xinh xắn, phong cách hài hoà là ăn ảnh.
- Hoặc ai dễ bộc lộ tình cảm như diễn viên đều rất ăn ảnh v.v...
Những hiện tượng người này ăn ảnh hơn người kia không phải là không có.Các nhà nhiếp ảnh lão thành cũng phải thừa nhận có những đối tượng rất khó thể hiện chân dung, và từ thực nghiệm người ta đã phát hiện ra rằng những nhân vật được liệt vào loại không ăn ảnh không phải vì màu da, nét mặt họ kỵ ống kính mà thường do hai nguyên nhân thuộc về trạng thái như:
- Không giữ được nét tự nhiên khi ống kính máy ảnh chĩa vào, chính vì sự gò ép làm cho tình cảm của họ khó bộc lộ ra đúng như lúc bình thường.
- Loại người rất ít bộc lộ tình cảm ra nét mặt, hoặc mỗi khi bộc lộ cũng chỉ trong khoảnh khắc là tắt ngấm ngay.
Do đó nếu không để cho họ được thoải mái tự nhiên, hoặc không tranh thủ bấm máy kịp thời, đúng lúc thì dù tốn đến bao nhiêu phim vẫn chỉ được những kiểu ảnh cứng đơ, ngây ngô  như tượng gỗ, làm sao mà miêu tả được vẻ đáng yêu của họ để bức ảnh trở thành tác phẩm chân dung.
Muốn thể hiện ảnh chân dung đạt yêu cầu với đối tượng này, nhà nhiếp ảnh phải tốn công phu đi sâu tìm hiểu rõ trạng thái diễn biến tình cảm đặc biệt của họ, kết hợp thủ pháp chuyên môn với việc tạo điều kiện cho phù hợp, và việc quan trọng trong thể chểnh mảng là phải tìm mọi cách bám riết, rình cơ hội thuận lợi để kịp thời "chộp" gọn mới đảm bảo thành công. Khó khăn trong thủ pháp này là những khoảnh khắc thuận lợi cho ta bấm máy đâu phải lúc nào cũng đầy đủ các điều kiện tạo hình, bố cục sẵn sàng theo ý muốn của đề tài.
Việc "ăn ảnh" hay không chính là như vậy nhưng nói như vậy không có nghĩa bó tay. Với nhiệt tình vì nghệ thuật, nếu chúng ta chịu khó tìm hiểu tâm lý con người, giữ được quyết tâm bền bỉ kiên nhẫn, khéo léo kết hợp thủ pháp chuyên môn với việc bấm máy kịp thời, thì dẫu gặp đối tượng "khó ăn ảnh" đến mấy vẫn có thể thực hiện theo ý định.

4.Thể hiện nội tâm trong ảnh chân dung nghệ thuật.
Muốn hình ảnh con người thật giống hoặc trẻ ra, mọng và tươi thắm lên không phải là khó đối với người có trình độ kỹ thuật nhiếp ảnh thành thạo. Nhưng chỉ lột tả được đầy đủ cái vẻ giống bề ngoài của con người chưa phải là thể hiện một bức chân dung hoàn chỉnh, vì nghệ thuật không phải là sự sao chép đơn thuần, mà chính là sự chuyển hoá từ người mẫu thành hình tượng nghệ thuật, tức là dùng hình thức để diễn tả nội dung, mục đích của tác phẩm trong đó nhà nhiếp ảnh bộc lộ tâm tình và bản lĩnh của mình.
Nhiệm vụ chính của ảnh chân dung thực đối với hoạ sĩ cũng như đối với nghệ sĩ nhiếp ảnh là biểu hiện cho được không chỉ giống ở bề ngoài mà còn phải khám phá cho được cái thế giới bên trong của con người bằng phương tiện tạo hình

Muốn như vậy trước hết nhà nhiếp ảnh chân dung phải làm quen với nhân vật định thể hiện, tìm hiểu tâm tư họ, hoà mình với họ, yêu mến họ, kiên nhẫn chờ đợi thời cơ, và nhạy cảm kịp thời phát hiện những nét độc đáo có thể chỉ thoáng qua một lần trên bộ mặt đối tượng để "chộp gọn" lấy bằng trình độ kỹ thuật chính xác. Ngoài ra lại cần biết khêu gợi kích động để biểu lộ những tình cảm thầm kín của đối tượng khi cần thiết, khiến cho nó bộc lộ ra một cách tự nhiên, chân thật. Đó là trách nhiệm của nhà nhiếp ảnh nghệ thuật đối với nhân vật, ví như nhà thơ tiếp xúc, gần gũi quần chúng để gợi cảm, tìm hiểu, cô đúc, chuẩn bị cho đề tài sáng tác. Còn chính bản thân tác giả của tác phẩm ảnh chân dung cũng không nên bắt ống kính phải thu hình một cách gượng ép, chụp bằng được phải tự tạo lấy niềm hứng thú để phát huy sáng tạo và khi đã xúc cảm phải dồn hết tâm tình, tài năng vào việc thể hiện một cách nhiệt tình như nhà thơ đã lựa
chọn được tiêu đề cần tranh thủ mọi cảm xúc dồn ra ngòi bút. Có như vậy mới kịp thời giành được khoảnh khắc quý báu và mới thể hiện được tác phẩm thực tế, chân thật, ảnh là một nghệ thuật miêu tả trực diện và chính xác nhất.
Trong việc miêu tả con người ảnh chân dung phải biểu hiện được cá tính, nhân cách, diễn đạt được thế giới nội tâm của nhân vật mới đạt yêu cầu của nghệ thuật. Đó là đòi hỏi của nghệ thuật nhiếp ảnh trong xu thế vươn lên ngang tầm với các ngành nghệ thuật khác.
Chụp chân dung mà biểu lộ được thế giới nội tâm của đối tượng tức là đã trang bị thêm phần hồn cho bức ảnh. Một bức ảnh có hồn nghĩa là từ những đường nét của người trong ảnh nổi bật sức sống chân thật, khiến khi người ngắm ảnh có cảm giác như người trong ảnh đang tỏ thái độ, tâm sự với ta, gợi cho ta thấy như đang tiếp xúc với người bằng da bằng thịt, đòi ta phải lắng nghe tâm tình của họ.
Đây là vấn đề đòi hỏi đến cảm xúc, kết hợp với tài hoa của tác giả.
Trong ảnh chân dung cũng như trong hình thể con người, đôi mắt, cái miệng và hai bàn tay là những bộ phận quan trọng nhất để bộc lộ thái độ và tình cảm. Đó là các trọng điểm cần tập trung miêu tả.

4.1.Về đôi mắt
Ảnh chân dung có giống, có đẹp, đạt yêu cầu nghệ thuật hay không là do các đường nét thể hiện trên khuôn mặt quyết định và trong toàn bộ gương mặt, đôi mắt là mực thước tiêu biểu nhất của tâm hồn.
Qua đôi mắt người ta dễ dàng phát hiện rõ tâm tư, tình cảm, hiểu được từng niềm vui ánh lên tươi tắn, nỗi buồn rầu đau khổ trong vành mi trĩu nặng xỉu xuống, hoặc sự căm thù giận dữ làm giãn đồng tử, chau lông mày.
Cũng từ đôi mắt dễ nhận rõ sự thương yêu trìu mến của người mẹ, thái độ nghiêm khắc của người cha, lòng quyết tâm của người chiến sĩ, vẻ phấn chấn hồ hởi sau khi hoàn thành nhiệm vụ, khát vọng, hoài bão, sự cầu cứu, van lơn... Tất cả mọi điều thầm kín nhất đều rực lên hoặc đọng lại trong khoé mắt.
Nhà nhiếp ảnh phải biết phân biệt cho rành rõ, tạo hình thích hợp, nhạy bén với những vẻ phát lộ tiêu biểu từ tâm trạng nhân vật mới bấm máy đúng khoảnh khắc ánh lên từ đôi mắt.
Có người thường tránh không để đối tượng nhìn thẳng vào ống kính máy ảnh bất kỳ ở kiểu cách nào. Tất nhiên là có những kiểu ảnh không thể đòi hỏi đối tượng nhìn vào ống kính được, nhưng nếu mọi trường hợp đều áp dụng như vậy là rập khuôn máy móc, dễ làm cho sự biểu lộ đôi mắt bị hạn chế, thậm chí có khi còn giảm thiểu nhiều tác dụng hoặc phản lại ý đồ miêu tả của người chụp.
Chụp người đang hoạt động dĩ nhiên là tầm mắt bắt buộc phải hướng vào phía có sự việc liên quan, nhưng chụp người đang ở trạng thái tĩnh, không có bối cảnh nào cần thiết phải cho đối tượng hướng về đó, sao lại không thể cho đôi mắt họ nhìn thẳng vào ống kính, để mắt người trong ảnh bắt gặp ánh mắt người xem ảnh, có dễ gây ra sự lôi cuốn thu hút hơn không ? Chính nhờ ánh mắt gặp nhau dễ tạo ra sự hấp dẫn, giao lưu tình cảm giữa người trong ảnh với người xem. Ngay bản thân chúng ta, vì thử khi nhận được một bức chân dung của người thân yêu lâu ngày xa vắng mà nhìn thấy mắt trong ảnh chiếu thẳng vào ta, đố ai không ít nhiều xúc động, và như cảm thấy người thân đang gửi ánh mắt vào trong ảnh những nỗi niềm tuỳ theo liên tưởng ở mỗi lúc ta ngắm nhìn.
Đôi mắt thật sự là sâu sắc, thật là cởi mở, thật là nồng cháy, diệu kỳ. Bức chân dung có hồn hay không phần lớn là do sự diễn tả về đôi mắt.

4.2.Về cặp môi
Sau cặp mắt phải nói đến cái miệng, mà chính là vành môi. Tình cảm do cặp môi biểu hiện ''ăn khớp đồng bộ'' với đôi mắt. Hai bộ phận phối hợp hữu cơ với nhau. Mắt nổi giận ắt miệng chúm lại hay vành môi mím lại. Mắt dịu dàng trìu mến thì vành môi giãn dài ra làm môi căng dài sang hai bên, mắt buồn thảm thì cặp môi chỉ chực méo xệch, mắt dịu dàng ưng thuận thì môi như muốn hé mở, mắt ngơ ngác kinh ngạc thì miệng dễ mở rộng thành há hốc v.v...
Có những cặp môi thể hiện rất rõ tâm tính con người như: nũng nịu, nồng cháy trên nét mặt, chúm chím như nụ hoa chớm nở và chín mọng ngọt ngào ở miệng ấu thơ, hay đồng bộ cùng khoé mắt đưa tình; chề bỉu cong cớn của kẻ đanh đá dành hanh; bĩu ra khinh bỉ của kẻ tự cao tự đại, coi thường người khác...
Có khi chỉ cần đặc tả từ vành mũi trở xuống hết cái cằm, xem ảnh cũng có thể hình dung được phần nào tính nết người trong ảnh nếu tác giả khó lột tả đường nét.

4.3.Về đôi bàn tay
Khi đôi mắt cái miệng được coi như cặp bài trùng, gắn với nhau như hình với bóng? Thì kẻ thứ 3: hai bàn tay được coi là yếu tố phụ - nhưng chính chúng cũng góp một phần đáng kể làm cho bức ảnh chân dung thêm sinh động và hấp dẫn, tuy là yếu tố phụ nhưng chớ coi thường. Phải nghiên cứu hình dáng, tư thế, màu sắc và vị trí cho chúng, đừng để chúng làm ảnh hưởng hoặc át mất tình cảm của nét mặt, nhưng cũng đừng làm cho chúng thành ngượng nghịu hoặc thừa không biết giấu đi đâu.
Đến đây chắc nhiều Bác tự đặt câu hỏi: Cái gì mình ấn tượng nhất, thường là thứ mình ngắm nhìn đầu tiên, và đó mới là cái ấn tượng nhất của bức ảnh chứ ? Các cuộc thăm dò, điều tra trên thế giới đều cho cùng một kết luận là đàn ông chúng ta khi gặp một người phụ nữ, bộ phận mà chúng ta ngắm nhìn đầu tiên và để ý nhất là đôi mắt (theo trường phái cổ điển) và một thứ khác (theo trường phái hiện đại) không phải là miệng hay tay . Là cái gì thì mỗi Bác tự có kết quả nhé, đây chỉ là sự gợi ý mà thôi...
Trong các nguyên nhân về sự thất bại của ảnh chân dung, một phần cũng do hai bàn tay vô vị, cứng đơ như gỗ, như kẻ mất hồn.
Nhà đạo đức học Montaigne người Pháp rất nổi tiếng về tài viết tiểu luận đã tả đôi tay rằng: ''ở đôi tay ư ? Chúng van xin, hứa hẹn, kêu gọi, xua đuổi, doạ nạt, thách thức, nịnh hót, chế giễu...''
Việt Nam ta có câu: ''Khôn ngoan hiện ra nét mặt, què quặt hiện ra chân tay". Nghĩa què quặt ở đây là nói bóng về sự vụng về. Nội tâm của con người, nhiều khi ánh mắt, cặp môi thể hiện ra chưa đủ, mà còn nhờ thêm sự bộc lộ của đôi tay mới diễn đạt đủ ý tứ của thái độ và tâm trạng: ngón tay cái ưỡn cong vươn lên rõ ràng là một dấu hiệu giao ước bảo đảm; ngón tay trỏ chĩa thẳng yàơ đối phương là cả một hành động khinh miệt, vạch mặt chỉ tên, hoặc gí sát trán ai là hiện tượng chua ngoa sấn sổ. Khi đắn đo tính toán, lao lung suy nghĩ ta thường gõ đầu hai ngón tay; khi tức giận thế nào cũng nắm chặt, nổi gân guốc và khi cảm động thế nào bàn tay cũng thấy run run...
Một số nhà nhiếp ảnh nổi tiếng đã dành thì giờ để ghi lại các dáng điệu, tư thế thân thường, tháo vát và gợi cảm của đôi tay trong các công việc hàng ngày của đời sống nhân dân. Nhiều khi xem điện ảnh hoặc xem biểu diễn sân khấu chúng ta có dịp được chứng kiến những điều mà đôi tay có thể nói thay lời được, mặc dầu đôi khi có vẻ cường điệu; nhưng ''không ai có thể cấm sự cường điệu theo hướng của sự chân thật''
Cũng như bất cử người nghệ sĩ nào, nhà hội hoạ không thể chỉ vẽ một cách bình thường cái dáng dấp bên ngoài của đối tượng mà còn phải phản ánh cho được mối quan hệ của mình với nhân vật ấy, nếu không như vậy thì những sáng tác của họ làm sao thuyết phục nổi quần chúng ngoài tấm vải thô được bôi màu trên giá vẽ!
Người nghệ sĩ chụp ảnh chân dung hoàn toàn không phải chỉ giới thiệu cái vật chất bên ngoài của nhân vật mà trước hết cần giải thích cho được cái thế giới nội tâm của họ. Trong lúc tái hiện hình dáng một con người cụ thể bằng những phương tiện kỹ thuật nhiếp ảnh, nhà nhiếp ảnh chân dung nghệ thuật còn phải biểu hiện cả sự hiểu biết của mình về tính cách của con người mình chụp, hay nói cách khác người nghệ sĩ nhiếp ảnh không thể là hoạ sĩ dửng dưng.
Chụp riêng bộ ảnh về đôi bàn tay đối với người yêu thích nhiếp ảnh cũng là một đề tài hấp dẫn, chẳng hạn với những nghề như thêu, tuồng, chèo... Bác nào thử chụp nhé!

5. Phân loại ảnh chân dung:
Ảnh chụp cũng như tranh vẽ, tuỳ theo mục đích của kiều ảnh và vị trí, tư thế, tầm vóc của con người được thể hiện ra trong ảnh mà người ta xếp loại, mỗi loại, mỗi kiểu cách của ảnh chân dung đều do cách bố cục đã dụng ý hình thành ra nó.Hiện nay theo em được biết là có 3 cách để phân loại ảnh chân dung, tuỳ thuộc và số người, tính chất của chủ đề, ảnh...

5.1. Cách phân loại thứ nhất:
Nếu hình con người trong môi trường hoặc cảnh trí nhất định nào đó mà mặt mũi không rõ nét (không được tập trung diễn tả) hình thể con người chiếm một tỷ lệ tương đối nhỏ so với diện tích to àn bộ bức ảnh, thì đó chỉ thuộc loại ảnh sinh hoạt hoặc phong cảnh trong đó có người.
Nếu con người được miêu tả tập trung ở bộ mặt; cách chụp làm nổi các chi tiết và hình dáng, lại thể hiện được cả tình cảm, nội tâm, đôi khi cả tư thế điệu bộ, thì loại ảnh này thuộc về loại chân dung. Tuy nhiên, sự phân chia cũng chỉ là tương đối. Ví dụ: đạt được các tiêu chí trên nhưng có ảnh được xếp vào thể loại ảnh báo chí, phóng sự...
Ảnh chân dung có thể là cả người (loại này hiện nay ít dùng), nửa người, hay riêng có bộ mặt, và có khi chỉ đặc tả có đôi mắt, cái miệng theo kiểu điện ảnh như đang được phổ biến ưa thích trong đa số đối tượng thành thị.
Trong chụp ảnh chân dưng người ta còn phân chia thành hai thể loại, mặc dầu ranh giới giữa hai thể loại này nhiều khi không thật dứt khoát, đó là chân dung ở thể tĩnh và chân dung ở thể động. Với hai thể loại này, căn cứ vào trình độ và phương pháp thể hiện lại hình thành ra loại chân dung lưu niệm bình thường không cầu kỳ về ý nghĩa miêu tả, và loại chân dung đặc tả đòi hỏi cả hình thức lẫn nội dung đều phải đạt tính nghệ thuật cao.

5.1.1.Ảnh chân dung tĩnh
Khi con người được miêu tả ở trạng thái không hoạt động (thể tĩnh tại, dù l à được chụp bất ngờ hay dụng ý cho ống kính thu hình) thuộc vào thể chân dung tĩnh.
Thể chân dung tĩnh phần lớn người ta chụp nửa người, ít khi thu hình cả người hoặc 2/3 và được thể hiện nội tâm bằng đường nét đặc biệt trong khuôn mặt kết hợp với chiếu sáng cho nổi bật chi tiết theo ý muốn.
Có nhiều ảnh chân dung mới thoạt nhìn tưởng như là tĩnh, nhưng nếu chú ý ngắm kỹ, thấy tình cảm của nhân vật được biểu hiện ra rất mãnh liệt ở các đường nét, khiến người xem ảnh cảm thông được cuộc sống bên trong của nhân vật, nhiều khi đôi mắt thể hiện trong ảnh rất tập trung, nhìn thẳng vào phía người xem ảnh như thu hút, chinh phục, trìu mến, hờn giận, yêu thương... Bức chân dung miêu tả được rõ ràng cá tính và nhân cách, tình tiết của đối tượng như vậy rất sống, rất sâu sắc, không ai lại có cảm giác cho là tĩnh theo nghĩa cứng đờ.
Chụp ảnh chân dung tĩnh phải có sự hòa hợp giữa nhà nhiếp ảnh và đối tượng, mặc dầu ở giữa hai người có cái máy ảnh ngăn cách.
Thiếu sự đồng cảm này, nhất là thiếu hưởng ứng và ủng hộ của đối tượng chụp, bức chân dung rất khó mà thành công.
Thể chân dung tĩnh này rất thịnh hành trong thời kỳ đầu của lịch sử nhiếp ảnh. Những bậc thầy về thể loại ảnh này như Talbot, Bayard,
Le Gray, Octavius Hil1, Nadar, Nappelbaum... tác phẩm và tên tuổi của họ vẫn được lưu truyền tới ngày nay.
Ở nước ta, thể chân dung tĩnh vẫn được đắc dụng trong một số trường hợp đặc biệt như: chụp ảnh lãnh tụ; chụp các nhân vật điển hình, chụp ảnh hồ sơ căn cước, sử dụng trong thí nghiệm, nghiên cứu, lưu niệm có tính chất nghệ thuật...
Tuy nhiên do tính chất mà nó ít mang tính nghệ thật mấy. Đây là trách nhiệm của các nhà nhiếp ảnh nghệ thuật chân chính trong việc thể hiện loại ảnh chân dung đăng trong báo chí, cần có những kiểu ảnh làm mực thước được phổ biến rộng khắp, bằng cách đó mới thúc đẩy mọi người cầm máy nâng dần trình độ nghệ thuật trong cách thể hiện ảnh chân dung.

5.1.2.Ảnh chân dung động
Ảnh con người đang cử động trong làm việc, sinh hoạt, học tập, chiến đấu... đều thuộc thể chân dung động.
Trong chân đung động người ta có thể thể hiện con người thật rõ nét như chân đung tĩnh hoặc chỉ miêu tả một số đặc điểm nào đó về các bộ phận chủ yếu trên khuôn mặt, còn các chi tiết, đường nét khác cho mờ nhoè đi để biểu hiện rõ cái động của nhân vật theo sự việc cần kết hợp bối cảnh và đều chụp bất ngờ.
Thể loại ảnh này chính là chụp theo kiểu chân dung phóng sự: ''bắt'', ''chộp" những dáng điệu, cử chỉ và nét mặt rất tự nhiên thoải mái của nhân vật, và ngay khi ta bấm máy, bản thân đối tượng không hay biết.
Ảnh chân dung được thể hiện theo kiểu này trông rất sống, người xem ảnh dễ có cảm giác như đứng trước con người thật. Sức sống bị ống kính chộp gọn như ngưng lại trong giây lát cho người xem ảnh có đủ thời gian nhìn rõ, phân tích cử chỉ hành động của con người đang sống mà trong khi gần gũi hàng ngày ít chú ý hoặc không có điều kiện xác nhận ra.
Nhưng nếu người cầm máy không đủ trình độ điêu luyện, không những khó chộp được thật đúng thời cơ bộc lộ tình cảm mang tính chất tiêu biểu, điển hình đẹp nhất trong dáng dấp, tư thế, điệu bộ của đối tượng, mà còn dễ thành những hình tượng hời hợt, ngây ngô, thậm chí người xem ảnh dễ hiểu lầm là tác giả đã bày đặt giả tạo.
Chân dung động là thể loại được phát sinh và thông dụng cùng với ảnh phóng sự, sinh hoạt, hiện nay đang được hâm mộ và ngày càng chinh phục được sự tín nhiệm của những người yêu ảnh.

5.1.3.Ảnh chân dung đặc tả
Chân dung đặc tả là loại ảnh đòi hỏi đạt tính nghệ thuật cao về miêu tả từ hình thức đến ý nghĩa nội dung, nếu không đủ trình độ kỹ thuật và nghệ thuật điêu luyện, nhất là quan điểm nhận thức không rõ ràng dứt khoát khó mà thể hiện thành công, vì không những phải lựa chọn thật chính xác những đặc điểm tiêu biểu cho vẻ mặt, dáng người của nhân vật, mà còn phải khéo kết hợp cách bố cục có sức hấp dẫn mạnh, cách chiếu sáng thật tinh tế mới làm cho các đường nét rất khái quát mà đủ chứa chất ý nghĩa súc tích của nội tâm nhân vật, ăn khớp với dụng ý của tác giả, khiến người xem ảnh càng ngắm nghía hình tượng càng nhận rõ ý nghĩa phong phú, như nghiên cứu một bài thơ thâm thuý, càng nghiền ngẫm càng phát hiện ra đủ ý tứ hay.
Ảnh chân dung đặc tả theo phong cách nghệ thuật không lệ thuộc vào khuôn khổ, kiểu cách, hầu hết do cách sáng tạo của nhà nhiếp ảnh và đề tài quyết định.
Người ta có thể đặc tả toàn thân đối tượng bằng một bóng đen kịt và dùng những vết sáng rất độc đáo, dẫn giải những điều cần miêu tả; có thể là tả bộ mặt theo kiểu chân phương; có thể chỉ cần cho nổi thật rõ nét đôi mắt, cái miệng, mái tóc... kết hợp với các bộ phận liên quan mờ nhoè làm bối cảnh; lại có khi chỉ dùng hình bóng nhân vật in vào mặt phông, ngả dài trên nền đất hoặc soi tỏ trên mặt nước để diễn tả tâm trạng bằng một vài nét rất đặc biệt về dáng dấp và vẻ mặt nhân vật, mà khi xem ảnh vẫn những đường nét thân quen, vẫn hiểu chi tiết của nội dưng đặc tả.
Do xu hướng và quan điểm nghệ thuật đã phân biệt, ảnh chân dung đặc tả phong cách thể hiện khác hẳn nhau:

5.1.3.1Đặc tả cụ thể
Dùng cách chụp thật gần, ghé sát ống kính vào đối tượng hoặc cũng có khi dùng ống kính chụp xa kéo nhân vật từ xa lại.
Thu hình tập trung, đầy đủ, chính xác bộ phận theo ý muốn. Chẳng hạn như đặc tả một bộ mặt già nua, ảnh sẽ nổi bật từ các nếp nhăn, lỗ chân lông, từng sợi râu, tóc, lông mày đến cả vết tích trên da thịt nhân vật, hoặc đặc tả vẻ mặt non trẻ thì không những các lông tơ, từng sợi tóc mềm mại, mà đến cả vẻ thơ ngây trong ánh mắt, cánh mũi, vành môi, kẽ răng... cũng được cách chiếu sáng làm nổi bật lên rất chuẩn xác, như người trong ảnh ghé sát mặt tới phía người xem...
Nhìn vào loại ảnh này như đọc một thể văn chương chân thực của một đáp án rành rõ mà lại vô cùng hấp dẫn, giàu mỹ cảm.

5.1.3.2.Đặc tả trừu tượng
Thường dùng cách bố cục rất ngộ nghĩnh, độc đáo, chiếu sáng rất cầu kỳ cho nổi bật một số đường nét khái quát nào đó đủ để cô đọng mọi ý tứ súc tích của nội dung miêu tả.
Những bóng đen, vệt sáng, cớ khi chỉ là một nét rất nhỏ, một cái chấm cỏn con, một sự ngờ nghệch có dụng ý, một cách chia cắt đột ngột, một sự chồng lấp tinh vi... biểu lộ ra mặt ảnh là cả một dãy móc xích ẩn kín đủ ý tình sâu sắc.
Mới thoạt nhìn loại ảnh này rất có thể chẳng nhận rõ điều gì mô tả, thậm chí có khi cả đến hình tượng chưa chắc đã phát hiện ra ngay là tư thế nào, nhưng nếu tập trung suy nghĩ xét đoán, sẽ lần ra đầu mối và từ đó sẽ giải đáp sáng tỏ dần theo cách hình dung liên tưởng.
Loại ảnh này có thể ví như bài thơ ý tứ thâm trầm, văn chương hết sức trau chuốt, tinh vi; hệt như bài tính đố uẩn khúc, phức tạp.
Nghệ thuật miêu tả con người theo quan điểm của ta là áp dụng cách đặc tả thứ nhất, còn xu hướng của trường phái ở các nước phương Tây rất chuộng cách đặc tả thứ hai.

5.2. Cách phân loại thứ 2:
Có thể phân thành các loại sau:
(1) ảnh chân dung dàn dựng,
(2) ảnh chân dung tự nhiên,
(3) ảnh chân dung sinh hoạt, và
(4) ảnh chân dung tập thể.

5.2.1.Ảnh chân dung dàn dựng
Sự thành thạo kỹ thuật và nhạy bén về thị giác chưa đủ để giúp ta vượt qua những khó khăn của việc chụp ảnh chân dung. Để thành công với thể loại ảnh chân dung dàn dựng (formalportait), cả hai con người phải cùng tham dự vào tiến trình sáng tạo và mối tương quan giữa hai con người là điều cốt yếu nhất.
Với điều kiện chủ động về kỹ thuật và thời gian trong studio hay ngoại cảnh, những bức ảnh chân dung giàn dựng đạt yêu cầu là những bức ảnh trông không có gì là…dàn dựng. Quan hệ cởi mở, thân mật giữa người cầm máy và người mẫu là điều quan trọng giúp cho người mẫu cảm thấy thoải mái, tự nhiên. Bản thân người cầm máy cũng phải có phong thái tự tin trong những cách tạo dáng cho người mẫu hay cách xử lý kỹ thuật cho mình.
Chọn lựa những đặc điểm nào trên gương mặt cần nhấn mạnh, hay cần giảm nhẹ là một sự lựa chọn khó khăn, tùy thuộc vào ý đồ của người cầm máy muốn làm đẹp cho chủ đề hay phơi bày tính cách của người mẫu. Không cần những kỹ thuật phức tạp hay bố cục khác thường, gương mặt con người tự thân vốn luôn hấp dẫn, và nếu ta có thể chụp bắt được một biểu hiện thích hợp trên nét mặt cũng đủ giúp cho bức ảnh thành công. Nếu là chân dung toàn thân hay ba phần tư chiều cao, cần phải đặc biệt chú ý đến hai bàn tay. Hình dáng và tư thế của hai bàn tay có thể cho biết nhiều điều về chủ đề chẳng kém gì gương mặt.

5.2.2.Ảnh chân dung tự nhiên
Có thể nói ảnh chân dung tự nhiên (informal portrait) là thể loại ảnh hấp dẫn người cầm máy ảnh, cả dân nghiệp dư lẫn giới chuyên nghiệp. Từ một đứa trẻ đang cười khúc khích trước ống kính cho tới một nhà sư chìm lắng trong lúc ngồi thiền, mọi chân dung không dàn dựng, tạo dáng ở studio hay tại nhà đều có thể coi là chân dung tự nhiên.
Tuy không cần phải thiết kế, bố trí gì, ảnh chân dung loại này cũng đòi hỏi ở người cầm máy nhiều kỹ năng không kém gì việc chụp ảnh chân dung trong studio. Người cầm máy phải luôn nhạy bén để có thể quyết định chớp nhoáng và chụp bắt được một tư thế đẹp hay một nét mặt độc đáo của chủ thể trước khi các biểu hiện đó biến mất.
Trong trường hợp người mẫu biết mình được chụp ảnh, ta nên yêu cầu họ làm một công việc hay thao tác nào đó vốn quen thuộc với họ.
Một hoạ sĩ vẽ tranh, một nhạc công chơi đàn, một chị bán hàng quẩy đôi quang hàng, một anh dân chài đang kéo lưới,…Những thao tác hay công việc quen thuộc sẽ giúp người mẫu thêm tự nhiên và những công cụ lao động, hoặc động tác sẽ góp phần tăng thêm tính thông tin lẫn tính thẩm mỹ cho bức ảnh.
Trong studio, hậu cảnh chỉ đóng vai trò thứ yếu là nhằm tôn người mẫu lên. Trong đời thường, hậu cảnh  cho dù có hơi mờ nhoè đi vẫn là một phần không thể tách rời với chủ đềMột bối cảnh không phù hợp sẽ phá hỏng không khí cảm xúc và bố cục của hình ảnh.
Với loại hình ảnh này thì các ông kinh các Wied có tiêu cự từ 20mm đến 35mm lại tỏ ra hữu hiệu hơn ống kính tele trong nhiều trường hợp.

5.2.3.Chụp ảnh tập thể
Ảnh chân dung tập thể cũng được chia làm 2 loại như ảnh chân dung cá nhân: ảnh dàn dựng và ảnh tự nhiên.

Ảnh chân dung tập thể dàn dựng
Dàn dựng một bức ảnh chân dung tập thể (Formal group portrait) là một thách thức đối với trí tưởng tượng và tài nghệ của người cầm máy. Tập thể người mẫu phải được bố trí sao cho hấp dẫn và cùng lúc phải bắt được sự chú ý của tất cả những người trong nhóm.
Việc xử lý bố cục và ánh sáng cho ảnh chân dung tập thể bị hạn chế rất nhiều nhưng dù vậy, phải hết sức tránh sự đơn điệu của các bố trí mọi người theo một hàng ngang cứng nhắc. ánh sáng tất nhiên phải tạo được không khí cảm xúc cho vào nhóm chứ không phải chỉ nhấn mạnh một hai cá nhân. Tập thể càng đông thì nên chụp càng nhiều phim để bảo đảm rằng trong bức ảnh cuối cùng không người nào nháy mắt, cau mày, bị che khuất hay nhìn đi chỗ khác hay khoảng khắc quan trọng.
Với tập thể đông từ 4 người trở lên, bố trí một hàng thẳng là cách bố trí rất vụng về, nên chia làm nhiều nhóm nên tốt hơn. Dù bố trí theo cách nào thì một chân máy (tripod) là một công cụ tối cần thiết khi chụp ảnh tập thể có dàn dựng, bởi vì nhà nhiếp ảnh cần phải di chuyển qua lại những nhóm người mẫu và máy ảnh để điều chỉnh cách sắp xếp và kiểm tra hiệu quả qua kính ngắm.

Ảnh chân dung tập thể tự nhiên
Chụp ảnh chân dung tập thể theo lối tự nhiên (informal group portrait) là một cơ hội cho các tay chơi ảnh nghiệp dư thi thố với các nhà nhiếp ảnh chuyên nghiệp
(Bức ảnh của Bác Letuananh đấy) .
Nếu chụp ảnh chân dung tập thể loại dàn dựng cần phải có sự điêu luyện nhà nghề để thành công thì loại ảnh chân dung tập thể tự nhiên lại không cần điều đó bởi vì mục tiêu của loại ảnh này là nghiên cứu những động tác và tư thế thoải mái, bất chợt. Những người chơi ảnh tài tử, thường là bạn hữu trong một tập thể nào đó, rất dễ có cơ hội chụp ảnh những người bạn của mình trong những tình huống về mặt lý thuyết có thể nói là lý tưởng.
Trong loại ảnh chân dung này, tập thể người mẫu không cần thiết phải nhìn vào ống kính, thậm trí cũng không biết đến sự hiện diện của một ống kính nào đó đang “soi mói”. Ngay cả những dịp trịnh trọng cũng là cơ hội cho những bức ảnh chân dung tự nhiên. Trong khi một nhà nhiếp ảnh chuyên nghiệp nào đó đang dàn dựng, bố trí một chân dung tập thể trang nghiêm, những người chơi ảnh nghiệp dư có cơ hội tốt hơn thể chụp bắt những bức ảnh sống thực của tình huống vào những lúc mà nhà nhiếp ảnh chuyên nghiệp kia không có mặt.
Cầm máy ảnh đi dạo quanh săn lùng những hình ảnh thực sẽ cho kết quả hay hơn là sắp xếp một tập thể theo hàng lớp ngay ngắn trước ống kính. Bí quyết của ảnh chân dung loại này là: càng đơn giản càng tốt. Hãy chọn một góc nhìn thích hợp và chờ đợi những bố cục đẹp ngẫu nhiên, quan sát những hành động và nét mặt, sử dụng các tốc độ trập nhanh.

5.2.4.Làm Việc và vui chơi
Các nhà nhiếp ảnh studio ngày xưa thường bố trí người mẫu của họ trước một phông nền vẽ phong cảnh nên thơ nhằm cho người xem ảnh biết thêm đôi điều về người trong ảnh. Trong trường hợp này, những thông tin “bổ sung” ấy chỉ đơn thuần là một gợi ý lãng mạn nhưng rất thô thiển  nếu xét theo tiêu chuẩn ngày nay  về sự sung túc hay hạnh phúc. Khuynh hướng hiện thực trung thực (honest realism) của nhiếp ảnh hiện đã thôi thúc những người cầm máy săn lùng chủ đề trong môi trường sống thật. Thay vì áp đặt những cảnh trí kịch tính, lý tưởng hoá cho người mẫu, các nhà nhiếp ảnh ngày nay lại muốn thể hiện con người trong cuộc theo đuổi mưu sinh với bối cảnh quen thuộc của từng con người trong chủ đề.
Động tác và vẻ linh hoạt của con người khi làm việc và vui chơi hiển nhiên là một vùng đất mầu mỡ cho những đề tài nhiếp ảnh. Khác với phần lớn những bức ảnh chụp trong studio trong đó sự tự ý thức lộ liễu của người mẫu về bản thân mình đã phá hỏng cảm xúc của bức ảnh, những chân dung tự nhiên chụp những con người hoàn toàn thu hút công việc hay niềm vui thực sự của họ lại toát ra một sức diễn cảm mạnh mẽ, và tạo cho bức ảnh một trạng thái tâm lý và tình cảm đặc thù không chút gượng ép.
Một nhà điêu khắc trầm tư xem xét những góc cạnh của một tảng đá, người leo núi đững lưỡng lự trước một bờ vực hay một đứa bé tung người bắt trong một trận banh trên đường phố; những con người trong những tình huống như vậy chẳng mấy khi bận tâm đến sự có mặt của nhà nhiếp ảnh nhạy cảm đang tự do đột nhập vào một cảnh đời và chụp bắt những nỗi sợ hãi không che dấu, niềm hoan lạc tột cùng, nỗi tuyệt vọng đát, cơn thịnh nộ khôn dằn hay thậm trí cả sự ngượng ngung, bố rối – miễn là sự ngượng ngùng, bối rối ấy không phải di chiếc máy ảnh tạo ra.
Nhiều chủ đề có thể hoàn toàn ý thức được sự đột nhập của chiếc máy ảnh, nhưng vì họ đang bận rộn với một hoạt động không thể ngừng nghỉ, và đặc biệt là một hành động quen thuộc, sự tự ý thức hiển nhiên của người mẫu dễ dàng tan biến chỉ còn lại một chút dè dặn hay tò mò trên mặt. Một dân chài đang kéo lưới có thể nhìn thẳng vào ống kính của một nhà nhiếp ảnh như những thao tác kéo lưới của anh ta đã thành một phản xạ tự nhiên và anh ta vững tin vào công việc mình đang làm. Không hề có chút gì giả tạo hay gượng ép trong tư thế và dáng điệu của anh dân chài ấy. Chụp ảnh con người trong môi trường thực họ còn giúp ta xác định được đôi chút gì đó về tính cách của chủ đề, thường là những cá tính bất ngờ để lộ ra.
Chụp bắt được những phản ứng và biểu cảm của chủ đề đối với một công việc hay một trò chơi mà họ đang tham dự thì những bức ảnh chụp được sẽ hấp dẫn hơn là những bức ảnh thuần tuý trình bày một sự việc. Mỗi bức ảnh như vậy sẽ là một “nhát dao cắt vào đời sống” đầy sức mạnh và sự thuyết phục với tất cả những hỉ nộ bi tráng đích thực của con người mà không cần gì đến “ những thủ pháp” hay “xảo thuật” về hình thức. Những chủ đề khác thường chưa chắc đã tạo được một bức ảnh độc đáo nhưng chúng có thể khơi nguồn cho nhiều càm xúc mới. Điều đó giúp ta hiểu được tại sao nhiều nhà nhiếp ảnh không quản ngại chui xuống cả các đường lò âm u của hầm mỏ, đứng trực chờ bên những giây truyền lắp giáp trong các công xưởng, vào sâu trong hậu trường của các nhà hát, v.v…để săn cho những chủ đề mới lạ trong môi trường phát dinh đích thực của những nỗi buồn và niềm vui.
Ảnh chân dung tự nhiên chụp những con người đang tham dự vào một sự việc thực thường gọi la ảnh đời thường (candid photography) và đó chính là che đẻ của thể loại ảnh phóng sự (reportage photography).

6.Tư thế:
Tư thế là các vẻ tượng trưng cho thái độ, đức tính của con người phát lộ ra thành điệu bộ, dáng dấp bề ngoài của hình thái toàn thân.
Khác hẳn với hội hoạ chỉ cần thật giống về bộ mặt, còn tư thế đối tượng tha hồ hư cấu tuỳ ý hoạ sĩ vẽ thế nào nên thế; ảnh chân đung bắt buộc phải ghi lại một cách chân thực đúng như tư thế nhân vật, vì chức năng của ảnh là khích lệ thuyết phục con người bằng phương pháp tái hiện hiện thực. Nếu không phản ánh đầy đủ hiện thực khách quan thì làm sao khởi động được cảm xúc chân thành của đối tượng và khán giả?
Hơn nữa, tư thế của con người không chỉ hỗ trợ đắc lực cho các vẻ mặt trong việc biểu lộ, nhấn mạnh về thái độ phong cách, tâm trạng, mà còn eo khả năng diễn xuất được nhiều trạng thái tình cảm cụ thể; biết vận dụng nó càng làm cho cách miêu tả con người thêm tinh tế, dễ giải quyết những trường hợp vẻ mặt đối tượng khó bộc lộ tâm tư, tình cảm.
Với thế thật cân bằng của hai vai khiến Lg ngực vươn lên vừa phải, đủ tỏ lộ vẻ nghiêm túc, sẵn sàng; với hai tay khoanh vòng trước ngực, khi xiết chặt lại tới mức độ co rúm hai vai, rõ ràng là thái độ khúm núm, khuất phục; nhưng nếu nới lỏng vòng tay để hờ trên ngực, lại tỏ ra khiêm tốn, chín chắn, lắng nghe; hoặc dáng người đứng thẳng, dạng chân, chống tay lên háng nếu không phải đo tính khí ngang tàng ắt là bộ tịch ra điều kẻ cả; hoặc Lg ngực vươn đến lệch vai dễ thấy ngay vẻ thách thức tự hào... Cái tình tiết từ tư thế con người phát lộ ra như thế đó!
Dựa vào khả năng, đặc trưng của tư thế, người phương Tây thường tận dụng nó trong việc mô tả các loại ảnh tâm lý nghệ thuật như: những bước chân suy nghĩ, mức thắm thiết của cánh tay ghì riết thân nhau, hoặc sự đau đớn quằn quại bằng thân hình co quắp hay ưỡn cọng, nghiêng, ngả...
Cũng như hội hoạ miêu tả nhân vật, ảnh chân dưng đã dựa theo đặc tính thể hiện tâm trạng của con người thường kết hợp với bộ mặt ớ cuộc sống thục tế để chia thân hình con người thành các thế: bán thân, 2/3 hoặc toàn thân, cho tiện theo từng cách diễn tả nội tâm; và ở mỗi hình thể này lại tuỳ theo đặc điểm về phong cách, thân hình đối tượng và yêu cầu mục đích của kiểu ảnh, kết hợp với bộ mặt để xếp đặt cho nhân vật đứng, ngồi, nằm, đổ chúi về phía trước, nghiêng ngả sang hai bên hay vươn mình uốn éo... Rồi, chính tử các tư thế cơ bản này đã sản sinh ra vô vàn kiểu cách theo ý sáng tạo khác nhằm đặc tả theo ý thức của những người cầm máy.

6.1.Thế bán thân
Người ta đặt tên cho thể này là chân dung bán thân vì ống kính chỉ thu hình nửa phần trên của con người vào ảnh. Thực ra, muốn cho ảnh chân dung ở thể này thật cân đối, thường chỉ chụp từ ngang túi áo ngực trở lên, hơn nữa mục đích chỉ diễn tả tập trung ở bộ mặt, vai và ngực, thông thường chỉ để cho cân xứng với đoạn cổ và đầu.
Chân dung bán thân là một thể ảnh đặc tả trung bình, phần nhiều được thể hiện theo kiểu chân phương đứng đắn, tuy cũng nhiều khi sử dụng để đặc tả tình cảm của nét mặt theo phong cách nghệ thuật, nhưng vì nó thoát ra ngoài khuôn khổ bộ mặt để bố cục tạo hình phức tạp (nhất là bối cảnh), cho nên nó thích hợp với người lớn hơn là trẻ em. Trong thực tế, đối tượng ưa chuộng thể ảnh này nhất là lứa tuổi từ trung niên trở lên.
Nói chung, thể chân dung bán thân hiện nay vẫn rất thông dụng, thích ứng trong nhiều trường hợp, phục vụ đắc lực cho các yêu cầu về ảnh: căn cước, hộ chiếu, chứng minh thư, ảnh lãnh tụ, ảnh giới thiệu các nhân vật điển hình trên báo chỉ thậm chí cả ảnh quảng cáo và ảnh lưu niệm hoặc đặc tả nghệ thuật cũng rất cần thiết thể ảnh này, vì với cách diễn tả tập trung vào bộ mặt, các chi tiết đặc điểm của vẻ mặt được biểu lộ đầy đủ rõ ràng cho việc thể hiện ở bất kỳ hoàn cảnh nào, lại không bị khuôn khổ hạn chế dù với yêu cầu nhỏ hẹp nhất về khuôn cỡ vẫn đảm bảo chính xác dễ nhận.
Tuy nói là ảnh chân dung bán thân thuận tiện cho việc thể hiện như: không bị thời gian và không gian hạn chế khi chụp, đối tượng chỉ cần sửa soạn bộ tóc và cái áo, không đòi hỏi cầu kỳ toàn bộ trang phục, không câu nệ cứ phải đứng hay ngồi mà cả lúc đang nằm vẫn chụp được vì chỉ cần có mặt và bộ ngực, không mất nhiều công chỉnh đốn các động tác tư thế khó nhất của tay chân... nhưng thực ra, chụp được kiểu ảnh chân dung bán thân đạt yêu cầu nghệ thuật không phải là việc giản đơn, và ngay cả với loại chân dung lưu niệm bình thường muốn cho bức ảnh thuận mắt, ưa nhìn, cũng không dễ dàng.
Ngoài việc chủ yếu căn cứ vào các đường nét đặc điểm từ chu vi hình thể đến từng chi tiết ở bộ mặt đối tượng như: gò má, cặp mắt, gờ trán, sống mũi, cái miệng, vành tai, đến cả cái cổ, cái cằm, lỗ mũi, mái tóc, kết hợp với vẻ bộc lộ tình cảm trên nét mặt nghiêm trang, chất phác, khô khan thô bạo hay hóm hỉnh, duyên dáng, dịu hiền, theo mỗi cảnh buồn, vui, căm thù, phẫn nộ, tin tưởng, hy vọng, mãn nguyện, ngưng đợi... để xếp kiểu cho thích hợp; mà còn phải dựa theo dáng dấp của thân hình, điều kiện ánh sáng cho phép, cả đến lứa tuổi của đối tượng nữa, để chọn lọc, chỉnh đốn tư thế cho cân xứng mới có thể lựa hình ăn khớp với khuôn cỡ ảnh để đạt yêu cầu của thể ảnh này.
Với đối tượng lớn tuổi, nhân vật đặc biệt, lãnh tụ hay ảnh căn cước, chứng minh thư, hộ chiếu, hoặc tương tự, cần lấy tư thế ngay ngắn chỉnh tề cho phù hợp với phong cách đứng đắn, nghiêm trang, tế nhị. Tuỳ theo cách thể hiện, có thể lấy thế hơi chếch bên sườn cho ngực nghiêng, hay nghiêng hẳn, hay vuông vức hai vai, nhưng cần cho thân nhiều hơn mặt một chút (chiều cao của thân khoảng gấp rưỡi mặt là vừa). Nếu để tư thế thẳng vuông vắn cân bằng hai vai nên chú ý chụp với góc độ hơi chếch ngang một chút cho ảnh đỡ cứng.
Đối tượng là thanh thiếu niên, nếu xét thấy bộ ngực không có lợi gì thêm cho mỹ cảm hoặc không cần phải kết hợp vẻ mặt với bàn tay hoặc cánh tay để nhấn rõ nội tâm tình cảm, nên rút ngắn thân hình lại cho khổ mặt cao to hơn. Nếu muốn diễn tả nét nở nang của Lồng ngực, có thể lấy từ ngang tầm vú trở lên kể cả nam lẫn nữ, và để thế hơi nghiêng hoặc nghiêng hẳn cho nổi bật (ở thế này người ta thường thu hình thấp xuống phía dưới vú cho khổ mặt nhỏ lại trong khuôn để khi in phóng ảnh dễ cắt cúp lại theo đúng nghệ thuật).
Khi cần lấy bán thân thật dài cho mặt nhỏ bớt đi, để tạo các thế nghiêng ngửa cho duyên dáng, hấp dẫn, người ta cũng có thể áp dụng cách chụp thu nhở lại cho khuôn rộng rãi để dễ cắt cúp khi in phóng ảnh. Nên lưu ý rằng: thế đổ nghiêng ngửa, vươn ngực thường thích hợp với phụ nữ, và thế đổ nghiêng chúi về phía thước thường thích hợp với nam hơn.
Với trẻ em, kể cả hài nhi, nếu có thể giữ cho ngưng ngọ nguậy lúc chụp, vẫn có thể dùng thể bán thân để thực hiện miêu tả chân dung như người lớn. Nếu chịu khó bố cục tạo hình, cắt cúp và đề tài hóm hỉnh, nhiều khi đạt được những kiểu ảnh có tính gợi cảm mạnh và rất độc đáo về nghệ thuật chân dung bán thân.

6.2.Thế 2/3 người
Ảnh chân dung chụp 2/3 người thường được sử dụng cho các trường hợp và điều kiện như:
- Vẻ mặt đối tượng chưa đủ diễn tả nội tâm theo mục đích yêu cầu của đề tài, cần kết hợp thêm tư thế dáng dấp, nhất là đôi tay cho thật rõ ý nghĩa.
- Thân hình đối tượng có nhiều đường nét hấp dẫn mỹ cảm, có tư thế bộc lộ rõ nội tâm và phong thái.
- Đoạn từ đầu gối xuống bàn chân đối tượng không có dáng dấp gì có lợi cho diễn tả như: thô xấu, dễ mất tự nhiên... hoặc ở dưới chân và quanh chân đối tượng có những chướng ngại ảnh hưởng không tốt đến nội dung và hình thức bức ảnh.
- Nhỡ nhàng, muốn lấy từ đầu đến chân nhưng không lùi máy được mà lại không có ống kính góc rộng để đẩy xa hình ảnh.
- Muốn cho thân hình và khuôn mặt to đầy trong khuôn hơn thì chụp cả khuôn hình.
Khi chụp thể ảnh chân dung này, người ta thường lấy từ trên đầu gối một ít trở lên (tức là gần hết toàn bộ chiều dài đùi của nhân vật),
nhưng đôi khi tuỳ theo ý thích của đối tượng kết hợp với nhà nhiếp ảnh, còn có thể chụp cắt ngang giữa đùi hoặc cao hơn (tới ngang hông là cùng nếu rút ngắn từ bụng trở lên sẽ thành thể bán thân).
Thể ảnh này chỉ thích hợp với đối tượng có thân hình cân đối, nở nang, tư thế duyên dáng hoặc đĩnh đạc đường bệ, dáng dấp ưa nhìn; còn đối với nhân vật gầy yếu hom hem thân hình mất cân dối, phụ nữ có mang, đàn ông bụng phệ, cả với người mặc quần áo lôi thôi dúm dó đều không thể áp dụng thể chụp này.
Chụp 2/3 người hầu hết lấy thế đứng cho dễ thể hiện, thế ngồi và nằm chỉ áp dụng cho loại chân dung động kết hợp với bối cảnh mà không thể cho đứng dậy được, còn rất hãn hữu dùng đến.
Cần lựa chọn thế đứng cho thích hợp với từng đối tượng, ví dụ như người có bộ ngực nở nang, cặp mông tròn trĩnh, mặt bầu bĩnh, quần áo thật gọn có nếp là đẹp nên để đứng nghiêng; nếu không đạt yêu cầu như vậy tất phải để đứng hướng bề mặt thân hình vào ống kính, ở thế đứng quan trọng nhất là đôi tay, phải căn cứ vào phong thái đối tượng để bố cục mới thích hợp, không nên máy móc tuỳ tiện, ai cũng chống tay lên háng hoặc khoanh tay trước ngực, hoặc cho đối tượng cầm những vật ngược cảnh, cứng đờ...
Nếu nhân vật thấp lùn hoặc cao quá khổ, có thể áp dụng thế máy chụp ngước lên, chúc xuống để tạo rạ tầm vóc theo ý muốn.
Những trường hợp có bối cảnh thêm người hay phong cảnh, không nên cho đối tượng nhô lên nền trời quá cao vì ảnh sẽ gây cho người xem cảm giác như nhân vật vươn lên khỏi, thoát ly cuộc sống hoặc quá đề cao nhân vật.
Dùng bóng đổ in vào phông cũng có khi gây được hiệu quả nghệ thuật với đối tượng nào thích hợp. Nên nhớ rằng bóng đổ nằm trên mặt đất không thể dùng cho thể chân dung 2/3 này.

6.3.Thế toàn thân
Chân dung toàn thân là thể loại ảnh dùng để diễn tả tổng hợp về con người bằng cách cho nhân vật bộc lộ tình cảnh từ vẻ mặt kết hợp với tư thế động tác của thân hình và các chân tay, nhiều khi lại liên kết với đặc điểm của hình thái, vị trí đối tượng xuất hiện để thể hiện nội tâm và ý nghĩa nội dung bức ảnh.
Thể ảnh này thường để chụp các lãnh tụ, nhân vật điển hình, đặc biệt hoặc chân dung lưu niệm có kết hợp thêm cảnh vật có ý nghĩa, ở thể này phần nhiều người ta cho đối tượng đứng và ngồi hơn là tư thế nằm.
Khi chụp không nên nóng vội và cũng không nên sửa tư thế quá nhiều, cần để đối tượng thật thoải mái theo phong cách thường ngày, sau đó nhận xét lựa chọn góc độ chụp kết hợp hướng dẫn cho đối tượng chỉnh đốn lại, và khi thấy ổn định đạt yêu cầu là kịp thời bấm máy.
Tuỳ theo vẻ mặt, dáng người, tâm trạng và thói quen của đối tượng mà cho hướng mặt theo góc độ thích hợp, tránh gò ép lấy được.
Việc khó nhất khi thể hiện là làm sao cho chân tay đối tượng biểu lộ được tình cảm ra động tác tư thế mà vẫn giữ được vẻ tự nhiên. Cho nên, trước khi bố trí chụp cần hiểu rõ thế thích hợp sẵn, để nhanh chóng chỉnh đốn, lựa kiểu cách cho họ và phải chủ động nếu không điều khiển được con người thì nên dùng thủ pháp kỹ thuật cho ống kính thu hình kịp thời đúng lúc mới dễ đạt hiệu quả tốt.
Chụp chính diện tối ky để đối tượng ngồi trên ghế đẩu hoặc ngồi nghiêm chỉnh mà lưng không có cái tựa (ra ảnh sẽ giống như người ngồi xổm).

Ảnh chân dung dĩ nhiên là phải lấy việc mô tả bộ mặt là chính, nhưng nếu ở thế này mà cứ loay hoay về cách lựa kiểu mặt, sẽ lãng quên mất việc chỉnh lại tư thế chân tay cho đối tượng, để rồi, chỉ cần một chi tiết nhỏ vế động tác ngây ngô ngờ nghệch của đối tượng sẽ làm phí cả vẻ mặt rất đẹp đã lựa chọn. Để khắc phục nhược điểm này, trước hết là ta sửa tư thế, bố cục cho tay chân đối tượng thật tự nhiên ăn khớp với nhau xong rồi hãy tập trung vào khuôn mặt, và khi sắp bấm máy cần kiểm tra lại toàn bộ cho thật đầy đủ mới không xảy ra hiện tượng đáng tiếc. Đối với các cụ già, dù ngồi hay đứng đều rất dễ đờ đẫn cả tay chân, nên đã có không ít các ''ảnh để thờ'' các cụ thường xoè đủ 10 ngón tay bày hàng ra phía trước trông như.tượng gỡ, hoặc ngược lại, lộ rõ vẻ gò bó cứng đơ theo tư thế được hướng dẫn, còn đối với thanh niên, nếu ta không giải thích cho họ rõ tư thế lố bịch phản mỹ thuật, tất khó tránh khỏi tình trạng nghịch ngợm cứ nằng nặc đòi chụp theo ''thế tự nhiên'' một cách không thích hợp với khả năng thu hình của ống kính, sẽ hỏng kiểu ảnh như chơi, chẳng hạn như tay chắp ra sau lưng mà cứ đòi chụp chính diện ắt ra ảnh sẽ thành cô hay cậu thương binh, hay cái vẻ ngồi ''bẻ què" tưởng là duyên dáng, nhưng đã vô tình bắt ống kính cắt cụt cả 2 chân.
Trường hợp kết hợp người với cảnh nên chọn chỗ cảnh nào ít rậm rạp để bức ảnh sáng sủa nổi bật người. Chỉ nên lựa lấy một phạm vi đặc biệt đủ khả năng tiêu biểu cho địa điểm, chớ vì cảnh sắc hữu tình mà tham lấy quá nhiều cảnh dễ thành ảnh phong cảnh, mất ý nghĩa tả người của ảnh chân dung; và, có một điều cần đề cao cảnh giác ở trường hợp này là ''những màu sắc và hình tượng mắt ta nhận thấy đẹp, rất có thể chỉ là những mớ hỗn độn trắng đen khi ra ảnh kia đấy''.

7. Về bộ mặt
Phần trọng yếu trong cách thể hiện con người của ảnh chân dung là bộ mặt. Tả con người mà hình ảnh không nhận rõ mặt mũi nhân vật là ai thì còn gì là tác dụng của ảnh chân dung nữa.
Chụp chân dung không những để mô tả mà còn có mục đích ca ngợi vẻ đẹp của con người để khích lệ, cải tạo và bảo vệ sự sống, cho nên ảnh vừa phải giống như thực vừa tôn thêm giá trị của vẻ đẹp nhân vật mời đạt tính chân thực và tiêu chuẩn tạo hình nghệ thuật.
Phương ngôn ta có câu: ''Trông mặt mà bắt hình dong'', vì mặt là nơi tập trung nhất trong thái độ, tình cảm, vẻ mặt là tiêu biểu cho việc thể hiện tâm trạng con người. Muốn xác nhận rõ vẻ mặt người trong ảnh, không những đường nét cơ bản phải thật chính xác, mà đến cả các chi tiết nhỏ của từng bộ phận trong khuôn mặt cũng phải nổi bật bằng kiểu cách thích hợp với phong thái và nội tâm nhân vật. Do đó người chụp ảnh chân dung nghệ thuật cần có trách nhiệm nghiên cứu nắm vững các điều cần thiết về cách nhận xét và thủ pháp tạo hình bố cục bộ mặt đối tượng để diễn tả được chính xác đầy đủ bản chất của vẻ mặt từng người.
ảnh chỉ có khả năng thu hình theo bề mặt đối diện trực tiếp của đối tượng, không thể hấp thụ toàn thể một cách tinh tế như thị giác, con người lại muôn hình muôn vẻ, chẳng ai giống ai, ở khuôn mặt mỗi người lại có những nét đặc trưng riêng của thể chất và cá tính; nên khi chụp phải biết chọn bề nào, điểm nào đại diện, tiêu biểu nhất, khiến người xem ảnh dễ căn cứ vào đó để hình dung đúng khuôn mặt thực, đồng thời còn phải hướng ống kính vào đường nét đều đặn, có mầu sắc hài hòa nhất và kết hợp với thủ pháp tạo hình bố cục khôn khéo cho nổi bật cho thuận mắt để thu gọn lấy các chi tiết điển hình đặc biệt trên nét mặt của nhân vật mới đạt hiệu quả như mong muốn.
Phương pháp nhận định các đặc điểm thuận lợi hay bất lợi cho việc thu hình ở khuôn khổ vẻ mặt đối tượng, cũng không khác gì cách phân biệt xấu hay đẹp của bộ mặt theo sự nhìn ngắm thông thường.

Khi bắt gặp một bộ mặt, trước hết người ta thường khái quát xem khuôn khổ của nó tròn, vuông, trái xoan hay ngắn ngủi, dài ngoẵng hay bầu bĩnh, gân guốc hay hom hem... kế đó là bự đánh giá về sắc diện xem thuộc loại hồng hào, xám ngắt, xanh bủng, trắng trẻo hay xam đen, bánh mật; rồi mới tập trung ngắm nghía kỹ càng từ đường nét, chi tiết và vẻ biểu lộ tình cảm của các bộ phận trọng yếu như đôi mắt, cái mũi, cái miệng, gò má, mái tóc... ở đôi mắt nổi bật lên là vành mi nặng nề hay nhẹ nhõm; đuôi con mắt hẹp, rộng xếch hay ngang, xuôi; lông mày rậm, thưa, dữ tợn hay thanh tú, ngang bằng hay ngược ngạo; toàn thể con mắt thuộc loại trố, sâu, ti hí, lá dăm hay một mí, bồ câu và căn cứ vào đó nhận ra vẻ biểu lộ tính nết tâm trạng của con người như: hiền từ, chân thực, sắc sảo, hung hãn, sâu xa, nồng cháy hay hời hợt, nông cạn.

Những quầng mắt sâu hay nông, sức tương phản về sắc độ và diện tích giữa lòng đen với lòng trắng, độ dài ngắn của hai hàng lông mi có thể chứng minh giúp ta kết luận những nhận xét của ta. ở cái mũi là sống mũi cao, thấp, dọc dừa hay lõ, tẹt; lỗ mũi rộng hay hin, mũi quằm diều hâu hay hếch lên như mũi ngựa hí... ở cái miệng, hai vành môi là tiêu biểu của sức gợi cảm tuỳ theo nó vào loại dày mỏng hay cong cớn, hai mép rộng, hẹp, gọn hay thô, hàm răng đều, hay khểnh, vẩu; khi cười chúm chím, toe toét hay méo xệch...
Rồi đến gò má cao hay thấp, gày hóp hay núng nính, vành tai có gì khác thường, cái cổ có gì đặc biệt v.v... và v.v...
Những mảng lồi lõm, đường nét uốn éo nhỏ to, cao thấp, đầy đặn, mảnh dẻ, nặng nề hay nhẹ nhõm, hoắm sâu của các bộ phận chủ yếu trên khuôn mặt, sẽ cho ta mức độ tiếp nhận ánh sáng, bóng tối của nó và khả năng nhiễm hình sẽ ra sao của phim âm, nhờ đó mới quyết định ra kiểu cách tư thế thích hợp và tạo cách chiếu sáng cho nổi bật theo mục đích cần mô tả.

7.1.Kiểu cách chân dung
Kiểu cách của bức ảnh chân dung là dáng dấp cảnh vật hoặc con người, được sắp xếp, trình bày theo hình thái mỹ thay hiệu quả hấp dẫn mỹ cảm trong người xem.
Kiểu cách trong ảnh chân đung nghệ thuật chính là cách hình tượng khái quát, diễn tả vẻ đẹp con người bằng thủ pháp tái thể hiện các điệu bộ về hình dáng, tư thế và vẻ mặt theo thói quen của nhân vật vào hình ảnh, nhờ sự cảm nhận từ thực tế được gạn lọc, cô đúc một cách tế nhị sáng tạo của tác giả.
Chụp ảnh chân đung có sáng tạo được nhiều kiểu cách lạ mắt mới không làm người xem nhàm chán cũng nhờ kiểu cách mà khắc phục được các hiện tượng không bình thường do tật xấu trên khuôn mặt tạo ra. Nhưng, muốn diễn tả con người theo hình thái mỹ thuật nào cũng cần phải phù hợp với phong cách, vẻ mặt đối tượng và ý đồ miêu tả mới đạt được chất lượng nghệ thuật.
Ví như mái tóc, cần uốn, chải, để đài, tết, cặp như thế nào cho thích hợp với từng khuôn mặt và dáng người, mời thuận mắt, tăng thêm vẻ đẹp, biểu lộ đúng bản chất theo như thành ngữ Việt Nam: ''Cái tóc là vóc con người''.
Bố cục kiểu cách cho một bức ảnh chẳng khác nào cách trình bày một bài văn bài thơ để vừa có tác dụng đẹp mắt vừa tượng trưng được tình tiết của nội dung, người ta có thể dùng các lối chữ: đứng, ngả, viết hoa, viết thường, chân phương hay bay bướm... Tuy vậy, dù ảnh chân dung có được điển tả thành thiên hình vạn trạng theo tài hoa nghệ thuật đến bậc nào chăng nữa, vẫn phải dựa theo tư thế và bộ mặt thực của đối tượng mới đủ tiêu chuẩn về giá trị nghệ thuật, mới có tác dụng tái hiện hiện thực.
Những kiểu cách thông dụng mà cũng là cơ bản nhất của ảnh chân dung thường được thể hiện như sau:

7.1.1.Kiểu chân phương
Còn gọi là kiểu chụp chính diện, chụp thẳng, vì đối tượng hướng bộ mặt và thân hình trực diện với ống kính máy ảnh.
Để đối tượng ngồi hay đứng theo tư thế thật tự nhiên thoải mái, mặt vừa tầm thăng bằng ngay ngắn (không ngửa hoặc cúi hay đổ nghiêng), mắt nhìn thẳng vào trục ống kính hai tai đều thấy rõ ràng cân đối với nhau. Tóm lại là nhân vật ở tư thế thật chỉnh tề ngay ngắn, nhưng vẻ mặt thì tuỳ, có thể là nghiêm chỉnh, vui tươi hớn hở, cười, hoặc căm thù dữ tợn... mà không làm ảnh hưởng đến thế cân bằng ngay ngắn là được. Cần chú ý trong khi xếp kiểu, chỉnh đốn  tư thế đừng để đối tượng bị gò bó, ảnh sẽ cứng đờ mất linh hoạt.
Kiểu này khi dùng cho ảnh hộ chiếu thì dùng cỡ phim 4 x 6cm, cho mặt to vừa phải không cười, không được đeo kính râm hoặc ngậm thuốc lá.
Kiều chân phương rất thích hợp khi chụp chung nhiều người có tính chất lưu niệm.

7.1.2.Kiểu nghiêng 3/4
Điển hình của kiểu ảnh này 1à hoại chứng minh thư, cỡ phim 4 x 6cm hoặc 3 x 4cm. Vì ảnh thể hiện rõ tới 3/4 khuôn mặt (hơi nghiêng) nên gọi là kiểu nghiêng 3/4.
Để đối tượng ở tư thế hơi nghiêng so với trục ống kính. Mặt quay về bên trái sao cho khuôn ngắm máy ảnh nhìn thấy rõ 3/4 khuôn mặt là được. Mắt nhìn theo hướng mặt, tai phải lộ rõ còn tai trái vừa khuất hết. ảnh này cho chứng minh thư thường lấy mặt to hơn ảnh thường một chút (tuỳ theo quy định của công an địa phương, thông thường chiều cao của khuôn mặt tính từ cằm đến chân tóc, tức là điểm hết trán, là 2cm), cũng phải giữ vẻ mặt nghiêm chỉnh, không được đeo kính râm và ngậm thuốc lá. Nếu đối tượng là viễn hay cận thị có thể đeo kính trắng để chụp.

7.1.3.Kiểu bán diện
ở kiếu ảnh này chủ yếu là khuôn mặt, còn tư thế của thân hình đối tượng thì tuỳ có th ể ngồi, đứng, thẳng, nghiêng hoặc quay lưng lại ống kính.
Mặt đối tượng qay nghiêng hẳn một góc 90o, từ máy ảnh nhìn ra chỉ còn thấy nửa con mắt của một bên mắt, đường viền từ trán, sống mũi, đến nửa miệng nửa cằm như một vạch chia đôi dọc khuôn mặt thành hai phần thật đều nhau (do đó gọi là bán diện: 1/2 bộ mặt - profine).
Tuỳ theo từng trường hợp chụ thể và tư thế mà cho ngước mắt nhìn lên hoặc nhìn ngang tầm mắt theo hướng mặt. Có thể ngửa hay cúi mặt vừa phải.
Cần chú ý là kiểu này chỉ thích hợp với khuôn mặt bầu bĩnh, có vẻ đẹp ở thế nhìn nghiêng như mũi dọc dừa, có bộ tóc đẹp, lông mi dài, cong. Đối với những người mặt gãy, gày còm, gò má cao, mắt sâu hoặc lồi, cằm quá dài hoặc quá ngắn, mũi quá tẹt, răng vẩu, móm hoặc ở mặt có những tật xấu nhìn nghiêng lổ rất rõ, đều tối kỵ kiểu bán diện này.
Với kiểu ảnh bán diện này, người ta thường dùng cách chiếu sáng hắt hình bóng in vào mặt phông để tạo thành thể hình với bóng kiểu nghệ thuật.
Chân dung bán diện là loại ảnh nhiều tính nghệ thuật, nên kết hợp các cách chiếu sáng nghệ thuật như sáng ven, sáng ngược cho nổi bóng dáng khuôn mặt.

8.Điểm chụp thuận lợi với đối tượng không bình thường
Với các đối tượng có khuôn mặt và thân hình không bình thường như các tật hay dấu vết, các bộ phận của cơ thể không cân đối lộ rõ, không thể áp dụng kiểu cách tuỳ tiện như người lành lặn được mà phải tìm mọi biện pháp để cắt xén, che giấu những đặc điểm xấu bằng cách bố cục chiếu sáng hoặc bối cảnh thật thích hợp để bức chân dung đạt yêu cầu thẩm mỹ.
Điểm chụp thuận lợi là đặc điểm ưa nhìn nhất, thích hợp nhất cho việc diễn tả ảnh chân dung mà nhà nhiếp ảnh phát hiện thấy ở vẻ mặt và thân hình đối tượng, đã hình dung rằng nếu chĩa thẳng ống kính vào đó mà bấm máy chắc chắn sẽ được kiểu ảnh thuận mắt.
Với đối tượng không bình thường thì điểm chụp thuận lợi lại có tác dụng che giấu được các phần không đẹp mắt lộ rõ ra ở bộ mặt hay thân hình đối tượng.
Một số đặc điểm và cách lợi dụng điểm chụp thuận lợi để tạo cho ảnh chân dung đẹp mắt, che giấu được các dấu vết, tật bệnh xấu của đối tượng dẫn giải ở mục này, sẽ là những phương hướng cơ bản để các bạn phát huy tài hoa sáng tạo.

Với người mặt gầy, má hóp, gò má cao:
Không nên để đèn chiếu từ độ cao như với người bình thường, cần hạ thấp đèn hoặc lợi dụng góc chiếu sáng thấp cho các bóng tối ở các vùng lõm giảm bớt đi bao nhiêu càng tốt. Dùng loại sáng dịu và động viên đối tượng cười cho béo ra.
Nếu không khắc phục được bằng cách chiếu sáng, có thể dùng biện pháp thoa phấn vào các phần lõm cho ánh đèn dịu đi và chỉ nên xếp kiểu chân phương (chụp chính diện), tối kỵ kiểu nghiêng 3/4.

Với người mắt sâu, mặt gẫy
Cần hạ thấp đèn chính hơn bình thường, chiếu sáng dịu và hơi thẳng mặt (hơi chếch một chút) để tránh ra ảnh mắt thành hai hõm đen như đeo kính râm. Để ống kính đi ngang tầm mắt mà chụp. Tối kỵ kiểu bán diện, không nên chụp kiểu nghiêng 3/4.

Với người mặt có tật
Tuỳ theo trường hợp cụ thể để xếp kiểu nghiêng hoặc lựa góc độ chếch để chụp. Nếu chụp đối tượng ở thế tĩnh cần hướng dẫn cách nhìn để ra ảnh không thấy nhược điểm (ví dụ lác bên trái thì cho liếc sang phải, chột mắt cho nghiêng lấp đi và kết hợp nhìn theo hướng mặt, mắt ti hý không nên nhìn xuống, mắt ốc nhồi tránh để nhìn ngước lên...). Nếu đối tượng ở thế động, dùng những động tác bên ngoài để đánh lừa theo ý muốn.

Với người miệng có tật
Nếu miệng lệch thì cho quay mặt nghiêng ở thế nào không nhìn rõ lệch.
Nếu cười méo miệng thì giữ vẻ nghiêm chỉnh, ngược lại cười sẽ làm miệng hết méo thì cố động viên cho cười.
Rămg đen, răng sún, thưa, khấp khểnh hoặc khi cười làm mặt nhăn nhúm không tươi thì chớ nên cho cười.
Răng vẩu, cười bị hở lợi nhiều, miệng quá rộng, môi quá mỏng, chỉ nên cho cười chúm chím (hoặc chộp lấy thời cơ vừa thoạt vẻ tươi hay lúc nụ cười vừa chớm hết). Người răng vổ mà giữ vẻ mặt nghiêm chỉnh mím môi lại sẽ như ngậm cái gì đầy mồm, còn xấu hơn là hơi cười, với đối tượng này tối kỵ kiểu bán diện hoặc kiểu nghiêng.
Môi dày nên động viên cười cho mỏng bớt.
Môi sứt thì xếp kiểu nghiêng 3/4 hay bán diện để che lấp chỗ sứt hoặc che tay làm điệu xấu hổ, cầm hoa ngửi v.v...

Với người tai vểnh, cụp, sứt
Tránh chụp chính diện, tìm cách xếp quay nghiêng cho khuất đi.

Với người cằm lẹm, nhọn, dài, ngắn
Với loại cằm lẹm, nhọn, dài, ngắn không nên chụp nghiêng hoặc bán diện, xếp kiểu hơi nghiêng đổ lao về phía trước, mặt hơi ngửa lên một chút cho cằm tròn. Tránh chụp chúc máy từ trên xuống và không nên cho cúi mặt vì sẽ làm cằm dài nhọn thêm ra trong ảnh.
Nếu quai hàm to, bạnh, không nên chụp thẳng chính diện, xếp quay nghiêng hoặc chụp chếch sao đủ che lấp nhược điểm này đi.

Với người cổ dài, cổ ngẳng
Xếp kiểu ngồi cúi lao về phía trước, mặt hơi ngửa lên, xốc cao cổ áo hoặc quàng khăn cho ngắn bớt cổ.

Với người cổ ngắn, so vai, rụt cổ
Xếp kiểu ngồi vươn lên, quay nghiêng mặt hơi cúi, mặc áo sơ mi cổ bẻ, không nên quàng khăn.

Với người mũi tẹt, mặt bẹt và mỏng
Không nên chụp nghiêng và ngửa mặt nhìn lên hoặc ưỡn ngửa đổ về phía sau.

Với người đeo huy hiệu, huân chương
Không để đeo thấp quá chụp sẽ phải dài thân làm ảnh mất cân đối nên hướng dẫn cho đối tượng đeo cao hơn bình thường một chút.
Khi chiếu đèn nếu thấy loá sáng do phản chiếu thì nên cho huy hiệu hay huân chương hơi ngả xuống sẽ hết phản xạ.

Với người đeo kính trắng
Đối với người viễn hay cận thị cần đeo kính trắng khi chụp, muốn chiếu đèn không bị loé sáng nên chiếu cao hơn bình thường, mặt hơi cúi.

Với người mũi hếch, vành mũi to
Không nên xếp kiểu bán diện hay chính diện, với kiểu nghiêng 3/4 khi chụp nên chúc máy cho bớt đi.

Với thiếu nữ cặp tóc
Nên nới cặp xuống thấp hoặc bỏ xoã cho hai bên tóc bè ra một tí, tránh để cặp gọn quá trông như con trai.
Ngả đầu về phía nào nên để tóc buông về phía ấy, nên để tóc ở phía sau. Trường hợp có bộ tóc dài đẹp, nên cho tết thành đuôi sam từ hai vai hay một vai xuống phía trước nhưng tránh để che lấp ngực hoặc mất một phần cánh tay làm gầy đi. Ngày nay có nhiều kiểu tóc tiên tiến, rất đẹp. Người chụp biết nhìn ra sẽ có được bức chân dung đẹp.

Mí mắt trùng
Yêu cầu đối tượng nhìn lên, thêm đốm sáng trong mắt (catch light).
Cám ơn bạn, tôi cũng rất vui vì những tài liệu tôi được học và tham khảo (mặc dù tôi biết nó đã có từ khá lâu rồi) giúp ích được cho các bạn. Đây là sân chơi cho những người yêu nhiếp ảnh và quan điểm của tôi là những gì nhỏ bé tôi biết và những tài liệu có ích. Tôi sẽ cung cấp đầy đủ cho diễn đàn, với hy vọng nhưng thành viên  ww.photo.com.vn nói riêng, những người yêu nhiếp ảnh nói chung có thêm chút ít kiến thức để tham khảo.

9.Góc độ chụp
Ngoài việc áp dụng kiểu cách và điểm chụp thuận lợi còn cần chú ý đến góc độ chụp để tránh mọi sự biến dạng hình ảnh do nhược điểm của thấu kính gây nên, mặt khác góc độ chụp còn có tác dụng khắc phục được một số nhược điểm mất cân đối của nhân vật, biết lợi dụng thích hợp sẽ rất thuận tiện, nhất là khi chụp chân dung động.
Vị trí của máy chụp đặt cao hay thấp đều có ảnh hưởng đến mức chính xác của hình ảnh, chẳng khác nào thị giác, khi nhìn ta có thói quen là nhìn ngang tầm mắt, do đó góc độ nhìn thẳng là một thế tự nhiên bình thường nhất. Nhưng khi đứng từ dưới thấp ngước nhìn lên (thị giác lướt theo bề dọc) ta lại cảm thấy vật ta nhìn có vẻ to cao, ngược lại ở trên cao nhìn xuống thấp ta lại thấy vật lùn bé lại (nhất là nhìn thẳng từ đỉnh đầu xuống - nhìn đối đỉnh). Do đó thế máy khi chụp cao hay thấp quá tỉ lệ người sẽ sai lệch hình ảnh, nhất là chụp ở cự ly gần.
Với góc độ chụp chân dung, nếu để máy cao quá sẽ tạo ra nhiều vùng tối ở khuôn mặt làm ngắn chùm mặt lại, để máy thấp quá thì phải chụp hất lên làm lộ rõ cả hai lỗ mũi trông rất thô và mặt có thể dài ra, cằm to hẳn lên.
Chụp ảnh bán thân (kiểu chứng minh thư) ống kính nên đặt ngang tầm mắt đối tượng. Đối với người mũi hếch cho máy cao lên một chút, còn người cổ ngắn ta hạ bớt máy một chút.
Chụp già nửa hay cả người (kiểu 2/3 và toàn thân) nên để ống kính ở ngang tầm cổ hoặc ngực đối tượng.
Trường hợp chụp chân dung động, người gắn liền với hoạt động của họ (như loại ảnh người tốt việc tốt chẳng hạn) cần theo sát cách hoạt động và tư thế động tác của đối tượng, do đó góc độ cũng phải bị thay đổi cho phù hợp với ý đồ chụp. Khi đó máy đặt ở đâu, cao hay thấp là tuỳ thuộc vào hướng hoạt động và hướng chiếu sáng của đối tượng.
Khuôn mặt của nhân vật nên để chính diện, 3/4 hay bán diện cần phải dùng khuôn ngắm của máy để ngắm lựa chọn cho thích hợp tránh những đường gãy khúc làm cho đường viền của khuôn mặt thành góc cạnh, lồi lõm. Cố gắng phát hiện các nét đặc biệt về hình thái và các chi tiết giúp cho việc diễn tả nội tâm.
Những quy tắc về góc độ kể trên là cơ sở để có phương hướng sáng tạo trong áp dụng thực tế, không nhất thiết rập khuôn máy móc, dự theo phương pháp thích ứng để biên chế ra chắc chắn sẽ không phạm sai lầm về cách sử dụng góc độ chụp.

10.Cự ly chụp
Cự ly chụp là khoảng cách giữa ống kính và đối tượng khi chụp. Cự ly chụp giữa bộ phận gần nhất và bộ phận xa nhất của nhân vật đối với ốgn kính đều có ảnh hưởng đến sự cân đối thăng bằng của hình ảnh. Nếu tay hay chân nào của đối tượng quá gần ống kính, ở ảnh sẽ to ra, mà ở xa thì bé lại. Ngay cùng trong khuôn mặt, nếu khi chụp đối tượng vươn cằm về ống kính thì ỏ ảnh cằm sẽ phình ra như bị sưng, trán sẽ ngắn lại. Đó là đặc tính của thấu kính.
Nói chung, trừ trường hợp đặc tả cần thiết, không nên để máy vào gần đối tượng quá vì 2 lý do:
- Đối tượng sẽ mất tự nhiên, dễ lúng túng, mất cả vẻ chân thật ở nét mặt.
- Chụp quá gần dẽ méo hình và ảnh do sự sai lệch của đặc tính viễn cận. Những phần sát ống kính như: mũi, cằm, sẽ to lên rất nhiều so với các bộ phận khác, nhất là 2 bàn tay, nhiều khi to đến nỗi trông rất chướng mắt.
Nhưng cũng không cứng nhắc cứ phải đặt máy ở xa. Có những kiểu đặc tả ảnh trông rất hấp dẫn. Cái khó là làm thế nào giải quyết được 2 nhược điểm kể trên để người trong ảnh không bị thấu kính làm biến dạng và khi chụp không làm đối tượng mất tự nhiên là được.
Thực tế đưa ống kính vào gần đối tượng hình ảnh sẽ càng rõ nét, sinh động, nổi bất được đầy đủ chi tiết, dễ gây cảm xúc cho người xem ảnh (như ghé nhìn sát tận mặt). Trường hợp này dùng ống kính có tiêu cự dài sẽ giải quyết được 2 nhược điểm trên tuy hình ảnh có kém đen trắng và không được mọng lắm.

11.Bố cục và bối cảnh
Bố cục trong ảnh chân dung là cách sắp xếp lựa chọn các động tác tư thế của nhân vật cho ăn khớp với kiểu cách đã lựa được.
Cần chú ý nhiều đến đường nét của khuôn mặt, thân hình, hai tay hai chân, làm sao cho toàn bộ bức ảnh cân đối nhịp nhàng, tuỳ theo thể chất của đối tượng mà thể hiện mềm mại dịu dàng hay khoẻ mạnh chắc nịch.
Trường hợp trong kiểu ảnh có từ 2 đối tượng trở lên, lại đang ở thể động thì bố cục sẽ khó khăn phức tạp, được người này dễ hỏng người kia.
Điều cơ bản cần nắm vững là làm thế nào để các nhân vật gắn bó mật thiết với nhau nếu kh«ng toàn vẹn về hình thức về mặt thể hiện tình cảm, tâm trạng để tránh rời rạc không gắn bó với nhau một mối.
Đối với thể chân dung tĩnh mà chụp nhiều người chung một kiểu, tránh để các đối tượng tự do lộn xộn thành tản mạn, nhất là trong đó lại có những đôi những tốp có cảm tình riêng thích đứng ngồi sát cạnh nhau, chú ý sắc độ cảu màu da và quần áo kể cả đến độ cao thấp và vẻ mặt từng người, không thì rất dễ xảy ra hiện tượng mất cân xứng cho kiểu ảnh .
Bối cảnh không nên quá rườm rà, cầu kỳ và quá lộ liễu. Cần tạo ra bối cảnh đồng màu, dịu, mờ nhạt. Những bối cảnh nổi bật rõ đen trắng đơn thuần đều không áp dụng vào ảnh câhn dung. Nếu bối cảnh là màu trắng có độ sáng lớn chiếu vào sẽ là mặt đối tượng bị đen, trái lại bối cảnh đen đậm sẽ làm cho tóc và áo quần màu sẫm lẫn với bối cảnh và tấm ảnh sẽ có sắc độ quá đen trắng.
Đặc biệt chú ý là cảnh phải hợp với người, chẳng hạn chụp người nông dân thì phải lấy cảnh nông thôn hay các vật có liên quan đến họ mà phụ hoạ. Chụp công nhân lại phải lấy cảnh nhà máy, công trường, thành thị để bối cảnh phố hay công viên mới phù hợp, ở vị trí của đối tượng và cả hướng ống kính thu hình, không nên để trên đầu hoặc phía sau, dưới đất có những đồ vật linh tinh như dây phơi quần áo, cột đèn, cây cối...

12. Tĩnh và động
Từ khi con người phát minh ra nhiếp ảnh, khó có loại hình nghệ thuật nào miêu tả về chân dung con người sát thực như nhiếp ảnh. Và đề tài chân dung nghệ thuật về con người luôn được các nghệ sỹ nhiếp ảnh chú ý nhiều nhất. Rất đơn giản vì đối tượng chính của VHNT (trong đó có nhiếp ảnh) là con người. Nhưng mục đích của ảnh chân dung nghệ thuật là con đường dẫn tới cảm xúc, ứớc mơ, vui sướng hay đau khổ cũng như nỗi lo âu của con người được hiện hữu trên tấm hình, vượt ra ngoài cái hiện thực thông thường ta vốn nhìn thấy hàng ngày. Người chụp ảnh chân dung nghệ thuật là người đi tìm hơi thở của cuộc sống con người. Nhưng để đạt được một bức ảnh chân dung nghệ thuật, người nghệ sĩ phải biết tìm những nét điển hình của nhân vật ở trên khuôn mặt như đôi mắt, cái miệng hay cử chỉ của đôi tay. Van Gốc víet : "mục đích của tôi không phải là vẽ mmột cánh tay tay mà là vẽ một động tác...". Công việc chính của người chụp ảnh chân dung nghệ thuật là người đi tìm đường nét điển hình, cá tính và khái quát nó lên hình tượng nghệ thuật, có thể là đặc tả hay trừu tượng, nhờ công cụ chiếc máy ảnh bằng cách dàn dựng hay "chộp" lấy hình tượng điển hình đó.

Chụp ảnh chân dung nghệ thuật, người chụp có thể thực hiện theo hai phương pháp chủ động dàn dựng chủ quan hay "chộp". Ảnh chân dung nghệ thuật cũng thường chia làm hai lĩnh vực: tĩnh và động.
1. Ảnh chân dung tĩnh là đối tượng được chụp trong hoàn cảnh không hoạt động. Thường có sự dàn dựng hay can thiệp trực tiếp của người nghệ sỹ trong đó cũng có cả những khoảnh khắc, cú "chộp" của người chụp. Lối chụp ảnh này thường được cắt hình 2/3 hay gần như đặc tả, cận cảnh. Cách chụp này nhiều NSNA của ta rất thành công cho dù sự ngăn cách giữa người chụp và người được chụp là chiếc máy ảnh và cũng vì có sự ngăn cách của chiéc máy ảnh mà thiếu cái nhìn tinh tế về cách chọn những nét điển hình của ảnh chân dung mà nhiều nhà nhiếp ảnh hao sức, tón phim về loại ảnh này. Tóm lại người NSNA chụp ảnh chân dung nghệ thuật đf tĩnh hay động đều phải khám phá cho được nét điển hình của chân dung con người.

2. Ảnh chân dung động là đối tượng được chụp ở vào trạng thái ghi hình trực tiếp đang hoạt động, làm việc cũng như sinh hoạt (vídụ: một người thợ đang vận hành máy, một người nông dân đang lao động... ). Loại ảnh chân dung động thường được bắt hình kiểu phóng sự ảnh báo chí về con người. Thể loại ảnh này cần sự kết hợp hài hoà giữa sắc thái con người và gắn liền với công việc, cử chỉ, động tác, cắt hình có thể là bán thân hay cả người và cũng có thể cả nhóm người. Ngày nay máy móc đã đơn giản hoá các thao tác kỹ thuật ghi hình như về ánh sáng, chỉnh nét tự động giúp cho người NS, chú tâm vào những cú chộp xuất thần. Nhưng xem ra lối mòn của ảnh chân dung nghệ thuật vẫn khá phổ biến. Con đường đi tìm tính điển hình của ảnh chân dung nghệ thuật nằm trong cái nhìn và sự cảm nhận của mỗi chúng ta. Ảnh chân dung động sẽ rất hiệu quả khi nhà nhiếp ảnh biết dừng lại ở một nụ cười hay một cử chỉ yêu, ghét, hờn dỗi rõ ràng nhất, đó là giây phút điển hình nghệ thuật của ảnh chân dung.

13. Ảnh khỏa thân
Trong lịch sử của loài người từ thủa hoang sơ, hình ảnh cơ thể con người đã là một yếu tố luôn gắn bó mật thiết với sinh hoạt cộng đồng.
Ngày nay ta có thể dễ dàng tìm thấy những tranh vẽ rất thô sơ hay hình nổi trên đồ gốm cổ đại các cảnh khoả thân. Khi hội hoạ tiến thêm một bước dài, giúp cho khả năng ban đầu là ghi chép rồi tiến tới thể hiện cuộc sống một cách sinh động hơn, ta lại càng có thêm nhiều tư liệu chính xác về xã hội loài người trong từng giai đoạn lịch sử mà điều luôn nhận thấy là sự quan tâm tới bí mật của cơ thể con người cùng với việc thần thánh hoá nó. Trong cộng đồng Thiên Chúa giáo, nhà Thờ là nơi tôn nghiêm nhất, tối kỵ nhất với những gì "trần tục", thế nhưng ta lại có thể tìm thấy ở nơi đây các tranh vẽ mang mầu sắc tôn giáo với các thiên thần khoả thân. Hội hoạ châu Âu những thế kỷ XVII, XVIII đã làm nở rộ những tài năng, để lại cho hậu thế những tuyệt tác không gì sánh nổi, trong đó một phần lớn các tác phẩm tập trung vào đề tài minh hoạ các huyền thoại. Tại đây, một lần nữa ta lại bắt gặp những hình ảnh khoả thân đầy quyến rũ.
Một cảnh trong thần thoại Hy-lạp (ảnh chụp tại bảo tàng El Prado - Madrid)

Châu Á cũng không phải là ngoại lệ, nếu như bạn biết rằng người Ấn-độ rất nổi tiếng với bộ sách Kamasutra và người Nhật lừng danh với các tranh in "phòng the" mà kỹ thuật thể hiện của chúng đã đạt tới một độ tinh tế khó sánh nổi. Việc phân biệt đâu là tác phẩm nghệ thuật không hẳn dễ dàng. Xã hội Việt nam khắt khe hơn rất nhiều trong việc nhìn nhận cơ thể con người như là một "báu vật". Nhưng điều này không hề làm cản trở những tưởng tưởng vô cùng táo bạo trong nghệ thuật từ thời Nguyễn Du làm ta say mê "Gót sen thoăn thoắt" của nàng Kiều đến thủa nữ sĩ Xuân Hương làm thế gian điên đảo với những vần thơ lửng lơ đầy ẩn ý. Trong lĩnh vực nghệ thuật hình ảnh thì các tác phẩm tranh Đông Hồ là một minh họa tuyệt vời. Ai bảo các cụ thời trước không..."khỏa thân"? Hãy xem bức tranh "Hứng dừa" dưới đây:
Người con gái vén váy làm giỏ hứng dừa để lộ đôi chân đầy quyến rũ.
Hay "cả gan" hơn là bức "Đánh ghen":

Có lẽ đây là một trong các tác phẩm truyền thống hiếm hoi mà người phụ nữ được thể hiện khỏa thân như thế.
Như vậy hình ảnh khỏa thân đã, và luôn là một đề tài hấp dẫn và tế nhị trong nhiều bộ môn nghệ thuật của nhân loại. Trong đó có Nhiếp ảnh nghệ thuật. Ngày nay chúng ta khó có thể hình dung lại được chính xác cú sốc do kỹ thuật nhiếp ảnh gây nên khi nó mới ra đời tại châu Âu. Thời ấy người ta đã quá kinh ngạc trước khả năng ghi lại một cách trọn vẹn và chính xác như thật của phim ảnh. Tuy nhiên nhiếp ảnh đã không được giới nghệ sĩ chào đón ngay như một công cụ của sáng tạo. Lĩnh vực ảnh khỏa thân đáng tiếc lại được bắt đầu với "chợ đen" của ảnh "khiêu dâm" - "Pornographie" dành cho các nhà quý tộc lắm tiền. Nói như Alain Fleischer thì các ảnh "Porno" này đã nghiễm nhiên tạo ra một loại "giá trị hình ảnh" tồn tại song song với "giá trị tiền tệ". Vậy thì ảnh khỏa thân nghệ thuật "Photo de Nu artistique" được bắt đầu từ bao giờ? Câu trả lời rất khó có thể chính xác nhưng ta có thể chắc chắn rằng cùng với việc Nhiếp ảnh tự
khẳng định chỗ đứng của mình trong sáng tạo thì "Nu Artistque" cũng đồng thời được thừa nhận. Các tài liệu lưu trữ cho thấy người chụp tấm ảnh khỏa thân đầu tiên trong lịch sử nhiếp ảnh thế giới là cặp đồng tác giả Eugène Duriu và Eugène Delacroix, vào khoảng năm 1853.
Nu de dos
Ta không biết danh tính của người mẫu, và cũng không thật sự quan tâm đến nó, điều gây ấn tượng mạnh nhất là dáng ngồi quay lưng với tất cả những cảm xúc về tò mò, khêu gợi, ngây thơ, trong trẻo...mà tất cả những cảm xúc này đã đạt tới một độ cân bằng đáng khâm phục. Tuy nhiên Eugène Duriu và Eugène Delacroix đã không chụp người mẫu như một tấm ảnh khỏa thân nghệ thuật mà mục đích của nó dành cho các tranh vẽ của Eugène Delacroix. Trong một loạt các tấm ảnh thể loại này ta có thể tìm thấy người mẫu nam và nữ với các tư thế, bố cục mang đậm dấu ấn của hội họa.
Nhiếp ảnh khỏa thân nghệ thuật của thế giới đã và luôn phải chịu đựng tất cả những định kiến, những hà khắc về quan niệm đạo đức, các đòi hỏi khắt khe của nghệ thuật...để có thể được chấp nhận như một sáng tạo nghệ thuật. Điều này không phải là mới, nếu như ta quay ngược dòng lịch sử của hội họa thì cũng sẽ gặp những bức tranh đầy "tai tiếng" mà ngày nay chúng được coi như những kiệt tác của nhân loại. Ở Việt nam chắc nhiều bạn biết tới danh họa người Tây ban nha Francisco Goya với tác phẩm "Maja Denuda" - Cô gái khỏa thân, mà ông đã lấy người tình của mình làm mẫu.
Maja Denuda, ảnh chụp tại bảo tàng El Prado - Madrid

Sự xuất hiện của kiệt tác này đã gây một cú sốc mạnh thời ấy khi mà định kiến trong sáng tác hội họa đã không thể chấp nhận một tư thế bố cục táo bạo đến nhường ấy. Thế nhưng cái đẹp thật sự cuối cùng đã thắng, tài năng của Goya đã được khẳng định khi ta có thể cảm thấy trong bức tranh, vượt lên trên hết tất cả mọi đường nét quyến rũ của thân thể, là sự tinh khiết và trong trắng.
Vào lúc khởi điểm của mình, ảnh khỏa thân nghệ thuật đã lấy hội họa làm một tiêu chuẩn cho hình thức thể hiện cũng như tư duy sáng tạo. Để có thể được công chúng thừa nhận thì một tấm ảnh "Nu" cần thỏa mãn nhiều điều kiện khác nhau hay nói một cách khác nó phải thuộc về thể loại "nu académique". Nếu như hình ảnh không thỏa mãn các "tiêu chuẩn" đó thì nó sẽ bị xếp vào loại "rẻ tiền". Như thế ta có thể thấy ngay rằng sự phát triển của ảnh khỏa thân nghệ thuật phụ thuộc rất lớn vào môi trường văn hóa
cảm nhận của người xem ảnh cũng đóng một vai trò quan trọng khi ranh giới giữa ảnh "nghệ thuật" và ảnh "khiêu dâm" hay tách biệt hơn nữa là ảnh "gợi cảm" - "photo érotique" là rất mong manh, đôi khi rất nhòe.
Sẽ rất thú vị và bổ ích nếu ta có thể biết được quá trình vận động và phát triển của thể loại ảnh nghệ thuật đầy khó khăn này trên thế giới.
Tên tuổi lớn đầu tiên phải kể đến là Man RAY, không những ông chỉ là cha đẻ của rất nhiều tư duy sáng tạo, kỹ thuật thể hiện mà các tác phẩm "Nu" của Man Ray đã thật sự đạt tới một đỉnh cao trong nghệ thuật.
Ảnh trong "série" mang tên "Black & White", 1926.

Một tấm hình khác, mang tính sự kiện bên cạnh sự quyến rũ của nó, là tác phẩm "Corset Mainbocher" của Horst P. Horst vào năm 1939.
Ta cần biết rằng vào những thập niên đầu thế kỷ XX này các bác sĩ đã khẳng định tác hại đến sức khỏe của loại áo bó mà phụ nữ vẫn hay dùng. Coco Chanel là một trong những người đầu tiên phản đối kịch liệt kiểu trang phục rất khó chịu ấy. Một tấm ảnh khỏa thân "Nu de dos" nhưng dưới một góc nhìn hoàn toàn mới lạ.
Corset Mainbocher, 1939

Nhà cách mạng của ảnh khỏa thân nghệ thuật chính là Helmut NEWTON (ta cũng có thể kể đến Jean-Loup SIEFF với phong cách hoàn toàn khác biệt) mà cách thể hiện của ông đã gây một tiếng vang không kém gì bức tranh "Maja Denuda" của F.Goya. Cũng một góc nhìn trực diện, cũng một cảm xúc trực tiếp, người xem cảm nhận tấm ảnh bẳng tất cả các giác quan của mình được chuyển tải bởi cái nhìn.
Elles arrivent! 1981

Hai tấm ảnh khổ lớn đặt cạnh nhau, cũng vẫn những người phụ nữ ấy, một bên với trang phục và một bên hoàn toàn khỏa thân. Người xem hoàn toàn bị chế ngự bởi nhiều cảm xúc khác nhau mà ấn tượng mạnh nhất là cảm thấy những đường nét tuyệt vời ấy đang tiến thẳng lại chỗ mình.
Helmut NEWTON được xếp vào loại nhiếp ảnh gia "khiêu khích" thế nhưng người thật sự gây sóng gió trong thập niên 80 của thế kỷ XX lại là Robert Mapplethorpe. Chùm tác phẩm quan trọng nhất của ông là về các nhà vô địch thể thao nữ, thể hiện hình ảnh người phụ nữ hiện đại, ý thức được rất rõ về thân thể mình.
Lady Lisa Lyon, 1982

Đến đây chúng ta hoàn toàn có thể tự tin mà khẳng định rằng ảnh khỏa thân nghệ thuật là một loại hình sáng tạo quan trọng của nhiếp ảnh hay nói rộng hơn là một hình thức thể hiện của nghệ thuật nhân bản. Ảnh khỏa thân nghệ thuật hoàn toàn có thể tồn tại và tìm thấy chỗ đứng của nó trong xã hội Việt nam bằng cách tôn trọng các giá trị đạo đức xã hội truyền thống và phát huy được tính ẩn dụ của nghệ thuật phương Đông. Mặc dù vào thời điểm hiện tại các nghệ sĩ nhiếp ảnh tại Việt nam vẫn phải làm việc trong "kín đáo" và "yên lặng" để chờ thời cơ nhưng điều ấy không có nghĩa là ảnh "Nu" không thể phát triển. Trước khi lên tiếng "kêu ca" các điều kiện xã hội hay "hành chính" thì từng nghệ sĩ cần biết được khả năng sáng tạo của chính mình, cần biết vượt lên trên những sáo mòn trong tư duy, những định kiến cho dù của cả một thế hệ...để có thể tự khẳng định mình bằng phong cách nghệ thuật của riêng mình và trả lại cho ảnh "Nu" giá trị "Artistique" thật sự của nó. Bên cạnh đó các cơ quan văn hóa hay các ban ngành có liên quan cũng hoàn toàn có thể tìm hiểu một cách nghiêm túc thể loại ảnh nghệ thuật này, có một cái nhìn thoáng hơn, rộng hơn để tạo điều kiện cho các nghệ sĩ tự do sáng tác.
Ranh giới duy nhất giữa ảnh "nghệ thuật" và "khiêu dâm" theo Alain FLEISHER là: "Càng có nhiều nghệ thuật thì sẽ ít tính khiêm dâm"
("Plus il a d'art et moins il y a de pornographie")
Tài liệu tham khảo:
- Photo Icons, tác giả Hans-Michael Koetzle, NXB Taschen, 2005
- La Pornographie, tác giả Alain FLEISHER, NXB La Musardine, 2005
“Chuyện xưa kể rằng: Ở một vương quốc nọ có một tên cướp khét tiếng giết người không gớm tay, vào một đêm thu hắn lẻn vào hoàng cung với ý định giết công chúa để cướp nữ trang và viên ngọc quý mà nàng thường mang trên người. Trong ánh sáng mờ ảo chan hoà cùng bóng tối của căn phòng, hắn đã rút gươm ra và nhẹ nhàng tiến đến bên giường của công chúa…, khi thanh gươm đã vung lên và sẵn sàng cắm phập xuống tim của nàng, thì ngay lúc đó áng mây vừa tan nhường chỗ cho ánh trăng toả nhẹ xuống hoàng cung, qua ánh sáng lung linh huyền ảo của trăng non, hắn thấy trước mắt mình là một thân thể nõn nà kiều diễm của công chúa đang khỏa thân và say sưa trong giấc điệp; dưới làn da trắng hồng của đôi bờ bồng đảo là trái tim đang đập nhẹ theo từng nhịp thở trinh nguyên… Lần đầu tiên trong cuộc đời ngang dọc, tên cướp đã sững sờ đứng lặng yên trước vẻ đẹp thánh thiện của Tạo hóa, hắn đã run tay không thể đâm gươm xuống ngực nàng và đành phải âm thầm rút lui vào bóng đêm…
Cái Đẹp mong manh, nhỏ nhoi còn sót lại trong phần NGƯỜI của tên cướp đã cảm hoá được và chiến thắng cái Ác cố hữu trong phần CON của hắn. Đó là triết lý muôn đời của nghệ thuật, của lẽ sống, qua câu chuyện mang đậm tính huyền thoại trên…”
Từ thời kỳ Phục Hưng, trong những nhà thờ công giáo đã xuất hiện nhiều bức họa khỏa thân ca ngợi vẻ đẹp thánh thiện của con người.
Nhiếp ảnh ra đời sau hội họa, nhưng trong quá trình hình thành và phát triển bộ môn nhiếp ảnh nghệ thuật trên thế giới (hơn 150 năm), ảnh khỏa thân cũng đã có mặt ngay từ những ngày đầu và song song phát triển với những thể loại khác cho đến nay. Bằng khát vọng luôn vươn tới vẻ đẹp của cuộc sống, tình yêu và cả vẻ đẹp của thân thể, các nhà nhiếp ảnh đã đi tìm cho mình những cảm hứng nghệ thuật về đề tài này để đạt tới những tác phẩm nghệ thuật đích thực, ca ngợi vẻ đẹp cả tâm hồn và hình thể người phụ nữ (lẫn nam giới).
Đó là những tác phẩm nghệ thuật đầy tính nhân bản, tôn vinh vẻ đẹp của cuộc sống mà thân thể con người là một hiện thân tuyệt vời.

Ngày nay trên nhiều tạp chí quốc tế đầy dẫy những ảnh trần truồng thô tục, khiêu dâm, trên internet cũng tràn lan; gần đây lại liên tiếp nổi cộm lên những scandal “ảnh nghệ thuật” của những ca sĩ, diễn viên, người mẫu…, làm cho không khí trong lành của nhiếp ảnh nghệ thuật chân chính ít nhiều bị ô nhiễm.
Ai cũng biết có một ranh giới vô hình giữa hai loại ảnh khỏa thân: “Naked” là trần trụi, dung tục, phơi bày ra một cách tự nhiên (không bao hàm nghĩa nghệ thuật). “Nude” cũng là thoát y, nhưng phải qua xử lý của người nghệ sĩ bằng kỹ thuật ánh sáng, góc độ, sắc độ, bố cục, đường nét.v.v. kể từ khi bấm máy cho đến khi tráng phim, rọi ảnh xong. Nói tóm lại là phải làm như thế nào đó để bức ảnh toát lên được
vẻ đẹp thánh thiện, trong sáng mà Tạo hóa đã ban tặng cho con người, nhất là người phụ nữ.
Ở Việt Nam ta không có một trường lớp nhiếp ảnh nào đưa bộ môn khỏa thân vào chương trình giảng dạy để trang bị những kiến thức cơ bản cho các học viên như trong các trường Mỹ Thuật. Các nhà quản lý văn hoá nghệ thuật cũng còn khá nhiều quan niệm lập lờ, không khuyến khích cũng không phản đối, nói đúng hơn là có xu hướng chấp nhận sự tồn tại một cách thụ động và vẫn đang ở trong giai đoạn thăm dò (?). Chính điều đó đã làm cho giới cầm máy trở nên lúng túng, hoang mang khi tìm đến chân giá trị của nhiếp ảnh nghệ thuật.
Trong khi nhu cầu lưu giữ cái đẹp trong tác phẩm nhiếp ảnh ngày càng cao mà quan niệm chính thống chưa rõ ràng, thông suốt, nên những nhà nhiếp ảnh vẫn cứ âm thầm sáng tác ảnh khỏa thân với một tâm trạng lén lút, vụng trộm như làm chuyện gì mờ ám, tội lỗi. Cả người chụp lẫn người mẫu đều mang nặng một cảm giác tâm lý không thoải mái khi sáng tạo nghệ thuật, cơ hồ như đang phản bội với chính mình, với gia đình và xã hội. Nhưng thực ra họ chỉ là những người mải mê đi tìm và tôn vinh vẻ đẹp thuần khiết của Tạo hoá rồi mang cái Đẹp ấy dâng tặng cho Đời (dù Đời có khi chưa hiểu hết họ).

Nghệ thuật là vô cùng, cái Đẹp là chân lý, cần phải được nhìn nhận và lưu giữ; thế nhưng nghệ thuật không phải là một phép toán để đi tìm giới hạn của những đường cong, chính vì thế nên khó có một văn bản cụ thể phân định rạch ròi cái giới hạn vô hình đó để định hướng và nâng cao thị hiếu thẩm mỹ của mọi người, phục vụ tốt hơn nhu cầu văn hoá phong phú, đa dạng của quần chúng. Cũng chính vì thế nên có nhiều tay lợi dụng tấm rèm thuật ngữ “ảnh nghệ thuật” để làm trò xấu xa, nhưng không phải vì vậy mà chúng ta đồng hoá hai nghĩa “nude” và “naked” được.
Thiết nghĩ, đã đến lúc Hội Nghệ sĩ Nhiếp ảnh Việt Nam cần phải chủ động phối hợp với Vụ Mỹ Thuật – Bộ Văn hóa Thông tin và các cơ quan ban nghành chức năng khác để có những văn bản quy định phù hợp với truyền thống dân tộc, bên cạnh việc dung nạp quan niệm thẩm mỹ của thế giới một cách hài hòa, hợp lý, không tránh né, không cực đoan; đồng thời cũng để có cái nhìn về nhiếp ảnh nghệ thuật một cách cởi mở và công bằng hơn so với những bộ môn nghệ thuật khác như hội họa, điêu khắc, điện ảnh, văn học…

 V-2, ÁNH SÁNG TRONG ẢNH CHÂN DUNG

Mình lược dịch bài này với tiêu đ "Studio Lighting Techniques" của tác giả Chuck McKern để giới thiệu sơ qua khái niệm v ánh sáng trong ảnh chân dung. Tuy tiêu đ nói v ánh sáng trong studio nhưng vẫn có thể sử dụng được khi dùng ánh sáng tự nhiên. Trong ảnh chân dung ánh sáng có thể được sử dụng khéo léo để nhấn mạnh hoặc xóa bớt những điểm khác nhau trên khuôn mặt nhân vật. Sử dụng đèn trong studio, ánh sáng tự nhiên, tấm phản quang, vv. sẽ dễ dàng hơn sử dụng flash vì bạn sẽ nhìn thấy hiệu quả trước khi chụp.
Có 4 kiểu ánh sáng:



- Kiểu 1 gọi là "Broad Lighting" tức là nguồn sáng chính đặt ở vị trí chiếu sáng phía của mặt của nhân vật gần với camera hơn. Kiểu chiếu sáng này dùng để làm cho người có khuôn mặt gầy trông béo hơn, giảm nét cá tính trên gương mặt.
- Kiểu thứ 2 gọi là "Short Lighting" khi nguồn sáng rọi vào phía bên kia của mặt, ngược với kiểu Broad. Kiểu này thường được sử dụng khi nhân vật có khuôn mặt trái xoan trung bình. Ánh sáng kiểu này nhấn mạnh các đường cong, nét gồ gh trên khuôn mặt. Các đường nét do bóng đổ có thể được điu chỉnh tăng giảm bằng cách sử dụng thêm đèn fill light có cường độ yếu hơn. Kiểu chiếu sáng hẹp này có thể dùng để người mặt béo trông gầy hơn.
- Kiểu thứ 3 là "Butterfly Lighting" dùng đèn chính đặt phía trước nhân vật và ở trên cao rọi xuống, chỉnh độ cao sao cho tạo nên bóng của mũi đổ xuống phía dưới thẳng hàng với mũi. Cách này phù hợp với người có khuôn mặt trái xoan thông thường, rất phù hợp với phụ nữ vì nó thường tạo nên vẻ kiêu sang nhưng lại không hợp với đàn ông vì nó làm 2 tai trông có vẻ to hơn.
- Kiểu thứ 4 là kiểu "Rembrandt Lighting", tạo ra những bức chân dung giống tranh Rembrandt bằng cách kết hợp short lighting và butterfly lighting. Đèn chính đặt cao và rọi vào phía mặt không quay v máy ảnh. Kỹ thuật này tạo một hình tam giác sáng trên gò má gần camera. HÌnh tam giác sáng cần điu chỉnh sao cho ở ngay dưới mắt và không lan xuống dưới mũi.
Đèn chính nên đặt ở vị trí tạo một góc 45 độ so với đường thằng nối giữa máy ảnh với nhân vật và ở vị trí cao hơn nhân vật một chút.
Cách tốt nhất để chỉnh độ cao đèn là nhìn vào bóng của đèn trong mắt nhân vật  (catchlights). Bóng của đèn nên ở vị trí giữa 11h với 1h trên hình tròn của mắt nhân vật.
Nếu không có bóng của đèn thì mắt trông rất vô hồn.
Thông thường người ta dùng thêm 1 đèn phụ (fill light) ở phía bên kia của máy ảnh. Đèn phụ phải yếu hơn đèn chính nhiu nếu không sẽ bị mất hiệu quả của đèn chính. Công dụng của đèn phụ là làm mm bóng đổ do đèn chính tạo ra.
Đèn phụ cũng được sử dụng để kiểm sóat độ tương phản. Tăng độ sáng đèn phụ làm giảm độ tương phản của ảnh và ngược lại. Đèn phụ sẽ thêm vào mắt nhân vật bóng của đèn ở vị trí thấp hơn bóng của đèn chính. Bóng của đèn phụ trong mắt nhân vật có hại cho ảnh vì nó tạo cảm giác nhân vật có một ánh nhìn vô hướng. Vì thế sau khi chụp xong thì phải dùng photoshop xóa cái bóng của đèn phụ đi.
Ngoài ra phó nháy sẽ còn dùng các tấm phản quang và ô để điu chỉnh thêm độ mm của bóng, và kết quả hiệu chỉnh sẽ thấy như tấm hình này.
Ngoài ra người ta còn dùng thêm đèn chiếu sáng phông và đèn chiếu sáng tóc, ví dụ như trong ảnh dưới đây:
Nguyên bản tiếng Anh của bài này ở đia chỉ http://www.vividlight.com/articles/1615.htm các bạn có thể tìm đọc.

Như NTL đã nói v nghệ thuật chụp ảnh chân dung trong Ảnh chân dung - Portrait thì một tấm ảnh đẹp là kết quả chung của những hiểu biết v kỹ thuật và sự giao cảm giữa nhân vật với người cầm máy. Như thế để có được một tấm ảnh chân dung đẹp thì ta cần phải chuẩn bị kỹ lưỡng mọi phương tiện trước khi bấm máy. Hôm nay NTL muốn trao đổi với bạn v thể loại ảnh chân dung ngoài trời và những điu cần chú ý.
Đa số những người chụp ảnh "amateur" sử dụng loại máy ảnh 24x36 để chụp ảnh chân dung, có thể là SLR hoặc dSLR. Trong lĩnh vực đặc biệt tinh tế này ít có chố cho những loại máy kiểu "Point & Shoot" (mặc dù đôi khi có những tấm ảnh chân dung nổi tiếng được tạo nên từ loại máy này). Như thế phương tiện đo sáng của bạn sẽ là thiết bị đo sáng gắn sẵn trong máy và loại ống kính zoom tiêu chuẩn kiểu 28-80mm cũng sẽ là thông dụng. May mắn thay ở vị trí tele 80mm, mà các ông kính loại này thường cho ảnh không thật sắc nét, bạn lại có trong tay một chiếc ống kính hoàn toàn phù hợp để chụp ảnh chân dung đấy nhé. Tất nhiên chiếc ống kính lý tưởng nhất dùng cho ảnh chân dung ngoài trời vẫn là một chiếc 85mm f/1,8 hay tương đương như thế. Ưu thế của loại ống kính này là cho phép ta khống chế dễ dàng độ nét sâu của trường ảnh (D.O.F) đồng thời nó có một độ sắc nét vô cùng đáng nể với độ phóng đại đủ mạnh để thu được cái thần của nhân vật. Ở khẩu độ ống kính mở rộng tối đa f/1,8 thì việc chỉnh nét đòi hỏi chính xác cao nhưng bù lại thì phông nn sẽ có độ lu mờ rất đẹp.
Để có thể giữ nguyên được ánh sáng không gian xung quanh thì việc sử dụng các tấm phản xạ (mầu trắng hay ánh bạc) để xoá đi bóng đổ là cần thiết. Các tấm phản xạ này tạo ánh sáng dịu hơn ánh sáng của đèn flash đồng thời cân bằng ánh sáng của tin cảnh với ánh sáng phông nn rất tốt. Giống như các nguồn sáng khác, các tấm phản xạ này cho một ánh sáng rất dịu khi nó ở gần chủ thể. Ta cũng có thể đạt được kết quả tương tự khi dùng thiết bị làm tán xạ các tia nắng trực tiếp của mặt trời. Lợi thế của loại thiết bị tán xạ này là nó cho một ánh sáng với nhiệt độ mầu cao hơn ngay cả với ánh sáng cuối ngày.
Bên cạnh đó bạn không thể thiếu một chiếc đèn flash dùng để làm "fill-in" trong trường hợp ánh sáng ngược chiu quá mạnh. Ánh sáng của đèn cần phải được thể hiện một cách kín đáo nhất mà vẫn đảm bảo xoá được các bóng tối không cần thiết. Bạn có thể dùng các "đầu phản xạ" - Bounce Card - hay "kiểu đầu tán xạ" - Diffusion Dome. Nếu như ánh sáng của đèn là quá rõ trên ảnh thì bạn hoàn toàn có thể hiệu chỉnh cường độ sáng của đèn -1/3Ev cho đến -1/2Ev. Trong trường hợp ánh sáng "lạnh" thì bạn nên dùng thêm một tấm kính lọc mầu vàng nâu để làm giảm đi ánh sáng tông màu xanh của đèn.
Photo by David Fung.
Thể loại ảnh này có khá nhiu cách thể hiện khác nhau như : chụp không dùng đèn flash, dùng đèn flash nghiệp dư, chiếu sáng kiểu « studio ». Nếu như bạn vẫn là người ưa thích dùng phim cho thể loại ảnh nghệ thuật này thì từ rất lâu kỹ thuật phim âm bản cũng như dương bản đã đạt tới một độ nhạy cao cho phép chụp ảnh trong nhà khong dùng đèn flash mà vẫn đảm bảo chất lượng. NTL xin đơn cử ở đây hai « lão làng » nhưng chắc chắn khả năng của chúng vẫn luôn là « thanh xuân » : phim dương bản Fuji Provia 400F, phim âm bản Fuji Superia X-Tra 800. Chúng được nghiên cứu để tương thích cao nhất với kiểu ánh sáng trong nhà như ánh sáng đèn « halogène » và ánh sáng đèn vàng đồng thời có khả năng hiệu chỉnh mầu sắc rất tốt.
Còn nếu như bạn là người sử dụng kỹ thuật số thì chắc chắn một chiếc dSLR với ống kính nhạy sáng là cần thiết. Các loại dCam, Bcam có kỹ thuật chống rung khi chụp ở tốc độ chậm cũng hoàn toàn có thể sử dụng nhưng chúng bị rất nhiu hạn chế v khả năng thao tác cũng như chất lượng ảnh. Và cho dù bạn chọn phim hay kỹ thuật số thì trong điu kiện ánh sáng yếu như thế bạn cần đến một chiếc ống kính nhạy sáng cho phép mở khẩu độ ống kính lớn (giữa f/1,4 và f/2,8 ) để có thể đạt được một tốc độ chụp cầm tay khả dĩ. Tất nhiên khi bạn mở rộng khẩu độ ống kính thì việc lựa chọn điểm canh nét là quan trọng, bạn có thể đạt được điu này bằng các kinh nghiệm thực hành. Kỹ thuật số chiếm ưu thế ở đây vì nó cho phép bạn thử nghiệm và quan sát ngay kết quả sau đó.
Dùng đèn flash nghiệp dư gắn trên máy sẽ tạo nên một ánh sáng trực tiếp và rất gắt, không đẹp cho thể loại ảnh chân dung trong nhà.
Bạn không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc làm tán xạ ánh sáng hay dùng ánh sáng phản xạ trên một b mặt có mầu trắng như trần hay tường nhà (lý tưởng hơn nếu bạn có một chiếc « Bounce Card » - tạm dịch là tấm phản xạ gắn trên đầu của đèn flash).

Kiểu ánh sáng này rất dịu và sẽ hợp lý hơn nữa nếu như bạn có thể thay đổi vị trí của đèn flash gắn trên máy bằng một dây nối TTL hay một chiếc « nhại » - Slave- không dây và chủ động lựa chọn hướng chiếc sáng cần thiết. (Kỹ thuật : Với những bạn nào đang sử dụng dSLR Nikon D70 thì bản thân chiếc đèn flash gắn sẵn trên máy đã có thể làm chức năng kích hoạt một chiếc SB-800 hay SB-600 từ xa, không dùng dây dẫn) Có một điu quan trọng cần lưu ý là khi nguồn sáng càng lớn thì ánh sáng càng dịu, như thế bạn hãy cố gắng đặt chiếc đèn flash càng gần đối tượng càng tốt và cho đèn phả sáng vào một chiếc ô mầu trắng chẳng hạn. Nếu bạn muốn có ánh sáng ấm thì có thể dùng một chiếc ô phản xạ có mầu nhũ vàng. Một chiếc kính lọc mầu vàng nâu cho đèn flash để giảm bớt độ « lạnh » của ánh sáng ở 6 500 K (nhiệt độ mầu, tính bằng độ Kenvin) cũng rất hữu ích.
Loại đèn flash chuyên nghiệp dùng trong Studio không h cho ánh sang « lạnh » vì chúng đã được căn chỉnh ở 5 000 K. Những chiếc đèn này có cường độ sáng rất mạnh và rất tiện dụng khi ta dùng kết hợp với ô phản xạ kích thước lớn hay một chiếc « hộp chiếu sáng » - « une boîte à lumière ». Vẫn cùng chung một nguyên lý như NTL đã nói đến ở trên đây là bạn đặt nguồn sáng càng gần chủ thể càng tốt.
Với loại đèn « torche » có nguồn sáng định hướng thì bạn nên khép sâu khẩu độ ống kính ở f/16 (khẩu độ sâu nhất mà không làm tán xạ hình ảnh - hiện tượng « diffraction ») Khả năng hiệu chỉnh hiện tượng tán xạ hình ảnh của các ống kính « macro » đặc biệt có hiệu quả khi chụp với đèn flash ở f/11 – f/16.
Photo by David Fung.
Vậy thì chúng ta sẽ bố trí các nguồn sáng như thế nào?
Rất đơn giản, nó không h phức tạp như bạn vẫn hình dung. Tùy theo số lượng nguồn sáng mà bạn có nhiu cách để chiếu sáng. Nếu như bạn chỉ có một chiếc đèn flash duy nhất thì ta sẽ dùng cách chiếu sáng cạnh, mà cụ thể là đặt flash v phía bên trái 45° so với chủ thể, và xử lý phần bóng đổ phía bên phải bằng một tấm phản xạ ánh kim. (Mẹo nhỏ : bạn có thể vò nát tấm giấy nhôm vẫn dùng để gói thức ăn trong nhà bếp rồi căng nó lên một tấm bìa cứng để dùng thay tấm phản xạ chuyên nghiệp đắt tin đấy) Dĩ nhiên là phần bóng đổ vẫn còn nhìn thấy rõ nhưng nó không còn « tối đen » nữa khi ta đặt tấm phản xạ gần chủ thể. Nếu như bạn có thêm một chiếc đèn flash thứ 2 để đặt ở phía sau chủ thể nhằm tạo ánh sáng vin cho mái tóc thì hiệu quả sẽ rất bất ngờ đấy. (Kỹ thuật : bạn nên tăng cường độ ánh sáng của đèn này lên +0,5Ev cho đến +1Ev và để ý xem hiệu quả của nó có quá mạnh trên bờ vai không nhé. Với các bạn đang dùng SB-800 thì có thể kiểm tra hiệu quả chiếu sáng và bóng đổ trước khi chụp bằng nút bấm trên lưng đèn) Tuy nhiên nếu chủ thể có một mái tóc sáng mầu kiểu châu Âu thì bạn cần hiệu chỉnh đèn –Ev đấy nhé. Nếu như bạn có thêm chiếc đèn flash thứ 3 thì hãy thay thế tấm phản xạ bằng chiếc đèn này và hiệu chỉnh cường độ sáng của nó giảm đi từ -1/3Ev đến -2/3Ev. Trong kiểu bố trí đèn flash này bạn có thể dùng tấm phản xạ đặt ở phía dưới của khuôn mặt để xử lý phần bóng đổ của hai đèn flash cạnh.
Photo by David Fung
Dĩ nhiên những điu mà chúng ta vừa trao đổi trên đây chỉ là một bước căn bản mà thôi. Bạn nên thử nghiệm và tìm ra những vị trí mới của từng đèn flash, không nên ngần ngại thử các kiểu chiếu sáng độc đáo. Chẳng hạn như bạn hãy thử phả đèn flash vào một chiếc ô đặt ở vị trí cao hơn chủ thể, 45° v phía trước chẳng hạn. Hay bạn thử dùng những chiếc tấm phản xạ mầu đen khi ánh sáng trong Studio rất dịu, nó sẽ làm làm mạnh hơn các bóng đổ, một phương pháp hiệu quả làm tạo khối cho khuôn mặt với ánh sáng tản.
Photo by David Fung

V-3, CHỤP ẢNH PHONG CẢNH
Nói đến nhiếp ảnh thì nhất định ta không thể bỏ qua một mảng đ tài lớn và vô cùng hấp dẫn, đó là chụp ảnh phong cảnh và tự nhiên. Với con người thì thiên nhiên là một điu không thể thiếu vì đơn giản cuộc sống luôn gắn lin với nó và như thế tình yêu thiên nhiên là hoàn toàn tự nhiên trong mỗi chúng ta. Ở giữa những đô thị ồn ào và ô nhiễm, một ngày nào đó thong thả v quê hay đi ra khỏi thành phố chừng hơn 10 km bỗng nhiên ta như thấy mình lạc vào một thế giới khác, trong trẻo và tốt lành. Trở v với thiên nhiên là trở v với cội rễ của chính lòng mình. Một vài lời phi lộ làm cảm hứng cho một đim đam mê trong nhiếp ảnh thiên nhiên. Nào chúng ta hãy cùng nhau lên đường.
Các phương tiện cần thiết để chụp ảnh phong cảnh
Đây là một trong những câu hỏi căn bản trước khi bắt đầu thực hành nhiếp ảnh bởi vì mỗi một loại phương tiện cụ thể có tác dụng tối đa trong một lĩnh vực nhất định. NTL sẽ cùng bạn tìm hiểu những loại thiết bị nào là cần thiết cho chụp ảnh phong cảnh nhé.

Chọn loại máy ảnh nào?
- Máy ảnh cơ chụp phim SLR là một sự lựa chọn lý tưởng vì chúng nhỏ và nhẹ đồng thời các chức năng được hoàn thiện một cách hoàn hảo. Vào thời điểm này thì bạn hoàn toàn có thể lựa chọn chiếc Canon EOS 30v.
- Máy ảnh kỹ thuật số dòng dSLR có tính năng động cao, cho phép bạn biết ngay được kết quả chụp ảnh nhưng chúng lại bị giới hạn vkích thước của "sensor" dẫn theo những hạn chế v tiêu cự của ống kính góc rộng. Ở đây NTL chỉ muốn đ cập tới các loại máy dSLR dành cho các bạn chụp ảnh nghiệp dư mà thôi (dòng máy Pro như Canon 1Ds có sensor bằng kích thước phim nhưng giá thành rất cao)
Thêm nữa các ống kính góc rộng như chiếc 12-24 DX của Nikon giá cũng khá đắt. Hiện tại thì sự lựa chọn hay nhất là chiếc Nikon D70 (giá khoảng 1200$ cho thân máy và zoom 18-70DX) nếu bạn đã có các ống kính của Canon thì nên đợi một chút để mua chiếc Canon 3000D với giá cho thân máy khoảng 600$ vào tháng 9-2004. Chiếc Canon 300D hiện hành sẽ không còn là hấp dẫn nữa khi chiếc 3000D ra đời với nhiu tính năng được thừa hưởng của Canon 10D.
- Các máy ảnh số dòng dCam và BCam cũng có thể đáp ứng những đòi hỏi căn bản của thể loại ảnh phong cảnh nhưng chúng thường bị giới hạn ở ống kính 28 mm là tối đa và khẩu độ mở của ống kính cũng thường chỉ nằm xung quanh f/8.

Bạn có thể xem các Test v máy ảnh ở Camera Test - Tư vấn máy ảnh
Chọn loại ống kính nào?
Với thể loại ảnh phong cảnh thì ống kính góc siêu rộng là thích hợp nhất. Giới hạn cuối cùng của ống kính dùng cho ảnh phong cảnh là 24 mm. Tuy nhiên bạn cần lưu ý tới hiện tượng méo hình ở vin ảnh do đặc trưng cấu tạo quang học của loại ống kính này.
Khi sử dụng bạn nên luôn lưu ý giữ gìn ống kính sạch sẽ vì chỉ cần một vết bẩn nhỏ sẽ tạo ra hiện tượng nhoè sáng và làm hỏng bức ảnh của bạn. Sử dụng loa che nắng 100% trong mọi hoàn cảnh là lời khuyên của NTL.
Bạn cũng không cần thiết phải đầu tư nhiu tin cho một chiếc ống kính nhạy sáng có khẩu độ mở lớn như f/2,8 chẳng hạn lý do đơn giản vì bạn sẽ thường xuyên sử dụng các khẩu độ giữa f/16 và f/22 với máy SLR và f/11 với máy dSLR (bạn nên tránh dùng các khẩu độ ống kính khép nhỏ hơn f/11 vì sẽ bị hiện tượng tán xạ của hình ảnh)
NTL xin đơn cử hai chiếc ống kính dùng cho ảnh phong cảnh: loại zoom 17-35mm cho phép mở rộng tầm chụp ảnh và loại 70-300 mm cho các chi tiết ở xa.
Điu cuối cùng là bạn nên sử dụng chiếc nút kiểm tra độ sâu của trường ảnh trước khi bấm máy nhé.

Bạn có thể tham khảo các loại ống kính được test ở LENS
Chọn loại chân máy ảnh nào?
Với khẩu độ mở của ống kính thường xuyên khép sâu thì việc sử dụng chân máy ảnh trong chụp ảnh phong cảnh là cần thiết để tránh rung máy khi chụp với tốc độ chậm. Tuy nhiên để có thể tiếp cận với các phong cảnh thiên nhiên tuyệt vời thì bạn cũng sẽ phải vượt qua những chặng đường đi bộ đáng kể đấy nhé và như thế thì trọng lượng của thiết bị là rất quan trọng. Hiện tại trên thị trường có rất nhiu loại chân máy ảnh được làm bằng vật liệu tổng hợp các-bon cho độ cứng cần thiết và trọng lượng nhẹ. Bạn có thể tham khảo nhãn hiệu nổi tiếng Manrotto nhé. Đầu tư cho một chiếc chân máy ảnh tốt không bao giờ phí phạm vì bạn sẽ sử dụng nó cả đời mình một cách hoàn toàn hài lòng.

Chọn loại túi đựng máy ảnh nào?
Câu trả lời ngay lập tức là bạn nên dùng loại ba-lô đựng máy ảnh chuyên dụng vì chúng giúp bạn dễ dàng di chuyển và giải phóng đôi tay bạn cho các thao tác chụp ảnh. Nhãn hiệu uy tín trên thị trường là Lowepro. BẠn có thể tham khảo các hướng dẫn tại đây.
Chọn loại phim nào?
Nếu bạn chụp bằng máy ảnh cơ SLR thì phim dương bản như Fuji Velvia sẽ cho một chất lượng ảnh siêu mịn và độ bão hoà mầu sắc rất cao mà phim âm bản không thể nào sánh được.
Nếu bạn sử dụng dSLR thì nên chuẩn bị tối thiểu một chiếc các 512Mo và các thiết bị lưu trữ ảnh như chiếc Archos 20Go. Nếu bạn dự tính đi chụp ảnh dài ngày trong rừng núi thì việc trang bị một chiếc máy tính xách tay là vô cùng cần thiết, không những nó cho phép bạn kiểm tra chính xác thành quả công việc của mình mà nó còn là một thiết bị lưu trữ ảnh tuyệt vời!
Sử dụng các loại kính lọc nào?
- Đầu tiên là chiếc kính lọc "Circular Polariser Filter", nó là một thiết bị không thể thiếu với thể loại ảnh phong cảnh. Bạn có thể xem thêm ở đây.
- Nếu bạn chụp với phim đen trắng thì chiếc kính lọc Đỏ sẽ làm cho mầu xanh thật sự đen trong khi đó kính lọc mầu Vàng sẽ làm sắc trời xanh sâu hơn rất nhiu.
- Chiếc kính lọc làm tăng tông mầu ấm cho ảnh như gam số 81 cũng rât hữu ích trong những ngày thời tiết xấu.
- Kính lọc "Graduated ND" rất hữu dụng khi bầu trời quá sáng so với mặt đất hay bạn có thể làm cho hình ảnh của bầu trời sâu hơn rất nhiu.
Phong cảnh thung lũng Interlaken, Thuỵ sĩ.
Máy ảnh Canon S400.
Bây giờ chúng mình sẽ đi vào từng vấn đ mang tính kỹ thuật căn bản một của thể loại ảnh đầy hấp dẫn cũng như khó khăn này. NTL cũng muốn nói với các bạn rằng trong chuyên mục này chúng mình chỉ đ cập tới cách chụp ảnh phong cảnh hoàn toàn nghiệp dư, như bạn, như mình, mà không h đòi hỏi những thao tác chuyên sâu nhé. Điu qtrọng là bạn có được những cảm xúc tuyệt vời khi bấm máy và mình cũng có thể chia sẻ điu ấy cùng với bạn.
Có lẽ bạn sẽ hỏi mình là trong thể loại ảnh phong cảnh nào thì những yếu tố nào là quan trọng, cần đặc biệt quan tâm? Nếu nói đơn thuần v kỹ thuật thì nó chính là Ánh sáng, độ nét sâu của trường ảnh, độ bão hoà mầu sắc. Còn nếu nói v hình thức thể hiện thì nó lại nằm trong mấy điểm chính sau:
- Bố cục Đường nét, Điểm nhấn
- Chất liệu
- Mầu sắc
Trước hết để có thể chụp được những tấm ảnh phong cảnh đẹp thì bạn cần có óc quan sát và một trí tưởng tưởng phong phú bởi vì đôi khi những cảnh đơn giản nhất xung quanh ta lại hoàn toàn có thể trở thành một tấm ảnh đẹp nếu tìm được một góc nhìn mới lạ. Vậy thì trước khi ngắm qua khuôn hình của máy ảnh bạn hãy để một vài phút quan sát kỹ lưỡng cảnh vật để hiểu rằng mình muốn thể hiện điu gì? Chú ý hướng tới của ánh sáng tự nhiên, các b mặt phản xạ và thử tìm một chi tiết nào đó hấp dẫn. Bước tiếp theo sẽ là nhìn lại những gì bạn vừa quan sát qua khuôn ngắm của máy ảnh.
1. Bố cục
Trong thể loại ảnh phong cảnh thì bố cục mang tính quyết định quan trọng tới giá trị của tấm ảnh do đó bạn cần dành thêm thời gian cho công việc này. Điu mà đa phần các bạn mới chụp ảnh hay mắc phải là các bố cục thiếu cân đối, rườm rà và đường chân trời hay bị lệch.
Một vài giấy trước khi bấm máy bạn thử kiểm tra lại xem xung quanh khuôn hình của mình có những tiểu tiết thừa nào không nhé? Nếu có thì chỉ việc xoay máy ảnh đi để có được một tấm ảnh đẹp.
Ở đây ta lại nói v nguyên tắc bố cục 1/3 có nguồn gốc từ các hoạ sĩ vẽ tranh:
Trong hình trên đây bạn có thể tiếp tục chia đôi các khoảng cách ra thêm một lần nữa để đạt được các điểm nhấn phụ. 

Photo By LucPappens.

V nguyên tắc thì nếu như bạn có thể đặt đường chân trời ở 1/3 độ cao của tấm ảnh thì sẽ rất cân đối nhưng điu này không phải là hoàn toàn bắt buộc. Bố cục của tấm ảnh còn phụ thuộc vào nhiu yếu tố của phong cảnh tự nhiên nữa. Với các ống kính góc rộng và khi bầu trời không có gì hấp dẫn thì việc chúc máy xuống đất tìm một chi tiết hấp dẫn cho tin cảnh lại là hợp lý.
Photo By Declan Hearne.
Photo By Mattana.

Nếu như bạn để ý và cùng với những kinh nghiệm thực tế cho thấy thì trong 4 điểm nhấn của bố cục cổ điển thì điểm nhấn dưới cùng bên phải thường gây một hiệu quả ấn tượng hơn cả.
Photo By Mattana.

Để tạo sức sống hay sự chuyển động, thu hút cái nhìn vào một hướng cụ thể thì việc sử dụng các đường nét có sẵn trong thiên nhiên là vô cùng quan trọng. Nói chung thì một tấm ảnh "động" dễ chụp hơn một tấm ảnh "tĩnh". Bạn hãy quan sát ví dụ dưới đây.
Photo By EyalDor Ofer.

Những đường nét chuyển động đã làm cho một tấm ảnh rất bình thường trở nên hấp dẫn.
Photo By LucPappens.

Một ví dụ hoàn hảo nữa v bố cục và đường nét trong ảnh phong cảnh. Tất cả những đường cày uốn cong dẫn ta tới điểm nhấn là ngôi nhà nổi bật trên nn trời đầy ấn tượng.
Đôi khi bố cục cũng được tạo nên một cách tự nhiên như một khuôn hình có sẵn, bạn chỉ cần quan sát và...bấm máy mà thôi.
Photo By Molnar.

Nếu như trong tranh Thuỷ Mặc ta vẫn hay nghe nói tới những khái niệm và tính tượng hình của Sơn và Thuỷ, bản thân chữ Phong cảnh trong tiếng Trung Quốc được ghép bởi hai chữ Sơn Thuỷ lin với nhau, thì trong ảnh phong cảnh hai yếu tố này cũng có tầm quan trọng quyết định cho dù chúng được diễn giải bằng cách này hay cách khác.
Nói v "Chất liệu" trong ảnh Phong cảnh tức là nói v sự biến đổi, sự khác biệt giữa các mảng hình trong tấm ảnh v yếu tố cấu thành nên nó. Chẳng hạn như một dãy núi đá, một cánh rừng đại ngàn, một cánh đồng mênh manh, một mặt nước phẳng lặng...Mỗi một chất liệu ấy đu có tiếng nói và cách biểu cảm riêng của mình. Có bao giờ bạn tự hỏi mình tại sao sự có mặt của "Nước" trong các tấm hình phong cảnh thường mang lại cảm giác tĩnh tại, nhẹ nhàng trong khi đó những cánh rừng lại có vẻ huyn bí, âm u...? Sự phong phú v"Chất liệu" trong ảnh phong cảnh là một yếu tố tạo nên những cảm xúc tự nhiên cho người xem ảnh. Tuy nhiên khi nói v "Chất liệu" thì ta cũng hay nói v "Mầu sắc" của chúng.
Photo By Devon.

Một tấm ảnh phong cảnh có thể chỉ là một nội dung tả thực nhưng nó cũng hoàn toàn có thể là một bức tranh đầy ấn tượng với những mảng khối mầu siêu hình. Khi ta đặt tất cả những yếu tố thiên nhiên tồn tạo trong không gian 3 chiu (hay n chiu) ấy lại với nhau trong một mặt phẳng 2 chiu nghĩa là ta đã tước bỏ đi của chúng những kích thước có thật, sự tồn tại của chúng, bối cảnh và không gian có thực...để "bắt "lấy  những cảm xúc bất tử, cái gọi là Nhiếp ảnh. Thiên nhiên đã luôn là như thế trước và sau thời điểm bấm máy của bạn, chỉ có cái nhìn sáng tạo là đem lại một khuôn hình mới.
Photo By North Wind.

Sử dụng yếu tố mặt nước như một chiu khác của hình ảnh là rất quan trọng trong ảnh phong cảnh. Những bóng đổ, những phản xạ của ánh sáng trên mặt nước...tất cả hợp thành phong cảnh. Ta hay có cảm giác bầu trời trống rỗng nhưng điu ấy lại ít được cảm thấy với mặt nước trong ảnh phong cảnh.
Photo By Anabela.
Khi nước được kết hợp với ánh sáng và chất liệu một cách hợp lý thì hiệu quả đôi khi thành công một cách bất ngờ.
Photo By Kenvin V.

Mầu sắc chính là yếu tố quan trọng để làm nên sự khác biệt v hình khối và đường nét trong ảnh phong cảnh. Sự tương phản hay kết hợp hài hoà của mầu sắc cũng đem lại một hiệu quả tâm lý không nhỏ. Xét cho cùng thì ảnh phong cảnh chính là tổng hoà của mầu sắc trong thiên nhiên. Chỉ một cái nhìn tinh tế v mầu sắc là đủ để cho một tấm ảnh phong cảnh thành công.
Photo By North Wind.

Một điểm nữa cần lưu ý với dòng nước chảy trong ảnh phong cảnh là tốc độ chậm sẽ tạo nên một hiệu quả nghệ thuật rất ấn tượng.
Photo By Aston.

Chúc các bạn thành công!
-------------------------------------

V-4, CHỤP CLOSE UP VÀ ẢNH HOA
Trong tiếng Anh ta vẫn hay gặp thuật ngữ “Macro Photography » còn trong tiếng Pháp thì là « La Proxi-photographie » chúng đu có ý nghĩa chung để chỉ thể loại ảnh chụp ở cự ly rất gần chủ thể mà độ phóng đại bắt đầu từ 1:1 hoặc lớn hơn. Để cho tiện chúng mình cùng thống nhất gọi là « Ảnh Macro » nhé.

Vậy thì tại sao lại cần có ảnh Macro ? Cả câu hỏi và câu trả lời đu rất lý thú. Ta vẫn quan sát và cảm nhận thế giới xung quanh qua đôi mắt và trí não của của mình một cách hoàn toàn tự nhiên và đôi khi là vô thức. Có những điu ta nhìn thấy, hay đơn giản là chúng đập vào mắt ta, và có những điu ta không « thấy » đơn giản bởi nhiu lý do : hạn chế của thị giác, kích thước của chúng quá nhỏ…hoặc bạn hoàn toàn không quan tâm ( ?) Lần đầu tiên được sở hữu một chiếc máy ảnh bạn bỗng khám phá ra một khía cạnh mới mẻ của thế giới qua khuôn ngắm nhỏ xíu mà kỳ ảo. Hình như tất cả bỗng đẹp hơn lên qua lăng kính ấy ? Bạn cũng như mình háo hức tìm cách ghi lại những điu đẹp đẽ ấy - những mảnh vụn của một thực tế hoàn toàn ảo giác. Thế rồi ta lại càng háo hức muốn biết thực chân của những hình ảnh ấy - điu gần như là không thể ( ?) Có nhiu cách, bằng trải nghiệm, bằng nghiên cứu chi tiết, mổ xẻ vấn đ…Ta tự đặt mình vào trong những thế giới mới với những kích thước đa chiu mới mẻ và mường tượng v những điu bí ẩn chưa có lời giải đáp. Một trong những thế giới ấy là MACRO. Nơi mà tất cả đu là nhỏ bé, nơi mà chiếc máy ảnh của bạn bỗng trở thành một vật thể lạ như UFO (Unidentified Flying Object)với những cư dân tí hon của nó. Mình đã sững sờ (và tin rằng bạn cũng thế) khi lần đầu tiên cảm nhận được vẻ đẹp tuyệt vời của thế giới nhỏ bé ấy. Một chiếc nhị hoa, một chú kiến càng, một chiếc chồi non…và ánh sáng, ánh sáng diệu kỳ. Càng tiếp xúc thì bạn sẽ lại càng muốn đi gần hơn nữa, thấy rõ hơn nữa những chi tiết nhỏ bé ấy cùng với một nim đam mê không lời.
Có nhiu cách để chụp ảnh MACRO
Việc đầu tiên bạn có thể tham khảo là gõ trên bàn phím « Google… » với từ khóa « Macro photo… » hoặc ghé lại một tiệm sách đầu phố, hay lại « Amazon… » Thế giới thông tin rộng mở cho phép bạn tới gần hơn những chân trời xa lạ. NTL xin được trình bày ở đây những hiểu biết có hạn của mình v lĩnh vực chụp ảnh đầy khó khăn và tinh tế này. Không quan trọng là bạn đang có trong tay một chiếc máy chụp phim « Compact » hay SLR, bạn đang có một chiếc dCam, BCam hay lý tưởng hơn nữa là  SLR…MACRO luôn là có thể trong tầm tay của bạn. Lợi thế của máy ảnh kỹ thuật số là nó cho phép bạn thử nghiệm…miễn phí (trừ thời gian và…mồ hôi nhé !) Dưới đây là những phương pháp căn bản để chụp ảnh Macro :

1. Chụp ảnh Macro qua một thấu kính trung gian :
- Dùng kính lúp có độ phóng đại lớn
- Chụp qua kính hiển vi
2. Kết hợp một ống kính thường với kính "Close-up" lắp thêm: “Lentille de proximité” (Attachement Lens)
3. Đảo ngược ống kính bình thường dùng vòng nối chuyên dụng “Bague d’inversion” (Reversing Ring)
4. Dùng ống kính chuyên dụng Macro: Ống kính cho máy SLR và dSLR
5. Kết hợp ống kính với vòng nối làm tăng độ phóng đại của hình ảnh “Bague allonge auto” (Auto Extension Ring)
6. Dùng khẩu nối làm tăng tiêu cự của ống kính “Téléconvertisseur” (Teleconverter)
7. Dùng thêm buồng nối mm “Soufflet” (Bellow) để gắn thân máy và ống kính.
8. Dùng chức năng chụp ảnh Macro của máy ảnh dCam, BCam.

Mỗi phương pháp đu có ưu và nhược điểm của nó. Nếu bạn chỉ đơn thuần là tò mò muốn biết chi tiết lớn hơn của một vật nào đó thì chiếc kính lúp có độ phóng đại lớn là cách đơn giản và ít tốn kém nhất. Dĩ nhiên là chất lượng hình ảnh không thể cao được rồi. Nếu bạn có điu kiện tiếp xúc với những thiết bị kỹ thuật cao cấp thì việc sử dụng kính hiển vi để chụp ảnh Macro đã từng là điu bí ẩn mà cả thế giới đi tìm đấy nhé (Nikon có thiết bị đặc biệt cho phép lắp máy ảnh vào kính hiển vi để chụp ảnh) Thuật ngữ chuyên môn của nó gọi là «photomicrography», có thể nói rằng nó là một phần tách ra từ chụp ảnh Macro nhưng lại lớn đến mức trở thành một lĩnh vực độc lập hoàn toàn mà độ phóng đại có thể lên tới x40.
Tiến thêm một bước nữa, khi bạn sở hữu một chiếc máy ảnh cơ SLR thì đơn giản và kinh tế nhất là mua thêm một chiếc kính "Close-up” dung để chụp ảnh Macro (Cokin có làm loại này: số 103, Close-up 3D hay Hoya với AC +1 đến +5…). Ưu thế của loại thiết bị này là giá thành rẻ và dễ sử dụng. Bạn chỉ cần lắp vào đầu ống kính và thao tác bình thường với AF. Tuy nhiên chất lượng của thấu kính và các lớp trang phủ có ảnh hưởng rất nhiu tới chất lượng của ảnh.
Khi bạn đã có một tay ngh khá chắc thì việc chụp ảnh Macro bằng cách đảo ngược ống kính cũng cho một kết quả rất đẹp. Ưu thế của nó là chất lượng của ống kính không bị ảnh hưởng bởi chất lượng của các thiết bị lắp thêm. Mua thêm một chiếc vòng chuyên dụng không h đắt nhưng phương pháp này đòi hỏi công phu và kinh nghiệm vì tất cả các thao tác đu làm bằng tay, kể cả tính toán v ánh sáng.
Cách “đơn giản” mà chất lượng cao nhất chính là dùng một ống kính chuyên dụng cho thể loại ảnh Macro. Giá thành cho loại ống kính này thường rất đắt vì chúng được thiết kế đặc biệt riêng cho ảnh chụp ở cự ly gần và có chất lượng hình ảnh rất cao. Ưu điểm v tính năng tự động tính bù sáng theo khoảng cách giữa ống kính và chủ thể sẽ cho phép bạn thoải mái tập trung hơn vào sang tác. Bạn hoàn toàn có thể kết hợp loại ống kính macro này với các thiết bị phụ trợ khác.
Trong hai phương pháp dùng khẩu nối thì giá thành của loại vòng nối “Bague allonge auto” rẻ hơn so với loại khẩu nối làm tăng tiêu cự của ống kính. Loại “Bague allonge auto” làm tăng độ phóng đại của hình ảnh trong khi vẫn cho phép bạn thao tác với sự hiệu chỉnh tự động ánh sáng bằng TTL. Nhưng các chế độ chụp bị hạn chế ở Manuel và Av. Tiêu cự chỉnh Manual. Khẩu nối “Téléconvertisseur” không những chỉ làm tăng độ dài của tiêu cự mà đồng thời nó cũng làm tăng độ phóng đại của hình ảnh. Sử dụng loại khẩu nối này chiếc ống kính của bạn có thể tự động hoàn toàn như khi được lắp trực tiếp vào thân máy.
Các máy ảnh dSLR nghiệp dư hiện tại đu có hệ số ống kính vào khoảng 1,5 đến 1,6 nghĩa là tiêu cự trên ống kính của bạn sẽ có giá trị thực gấp x1,5 hay 1,6 lần đấy nhé. Ví dụ như chiếc ống kính 50mm sẽ thành 75mm hay 80mm khi dung với dSLR. Người có lợi nhất chính là bạn!

Thiết bị đặc biệt nhà ngh trong chụp ảnh Macro chính là chiếc hộp nối mm có hình đèn xếp gắn giữa ống kính và thân máy ảnh “Soufflet”. Nó cho phép ta đạt tới độ phóng đại lớn nhất và rất dễ sử dụng. Được thiết kế để sử dụng với nhiu loại ống kính khác nhau (xuôi chiu cũng như ngược chiu) “Soufflet” cho phép đạt độ phóng đại từ x1 đến x11 tùy theo ống kính mà bạn sử dụng. “Soufflet” được sử dụng với một chiếc giá đỡ chuyên dụng “Banc d'approche” cho phép bạn thao tác với độ chính xác cao. Giá thành của loại thiết bị này rất đắt.
Với kỷ nguyên của kỹ thuật số thì chụp ảnh Macro đang trở thành một điu rất phổ thông và dễ dàng thao tác với các máy ảnh dCam, BCam.
Bạn chỉ cần đơn giản chọn chế độ chụp ảnh Macro (thường là có hình biểu tượng một bông hoa), chọn tiêu cự sẽ sử dụng, tin tưởng ở AF và bấm máy! Bạn có thể tham khảo thêm loạt bài viết v chụp ảnh hoa Macro bằng máy dCam trong chuyên mục này nhé.
Có khái  niệm căn bản trong ảnh Macro*

1. Độ phóng đại của hình ảnh (« Magnification Ratio  hay Rapport de Reproduction )
Độ phóng đại này xác định tỉ lệ giữa kích thước thật của vật thể và hình ảnh của nó ghi lại trên phim 24x36mm (hoặc sensor). Nó được tính bằng khoảng cách giữa mặt phẳng phim và vật thể với tiêu cự của ống kính. Ví dụ như khi hình ảnh của vật thể trên phim có kích thước bằng kích thước thật bên ngoài, ta nói độ phóng đại là 1 :1 hay 1x. Nếu hình ảnh lớn gấp đôi vật thật thì độ phóng đại là 2 :1 hay 2x.
Để có thể có được một độ phóng đại chính xác của vật thể thì đầu tiên ta phải chọn chỉ số này và sau đó tiến hành canh nét bằng cách dịch chuyển máy ảnh cho đến khi tìm được điểm nét ưng ý.
2. Hiệu chỉnh kết quả đo sáng (« Exposure Correction » hay « Correction d’exposition »)
Khi khoảng cách chỉnh nét giảm đi thì nó cũng kéo theo sự suy giảm của ánh sáng, đây là một định luật trong quang học. Khi bạn chụp ảnh bình thường thì sự suy giảm ánh sáng này là không đáng kể nhưng trong chụp ảnh Macro thì nó lại cần có thêm sự hiệu chỉnh v kết quả đo sáng để bù lại lượng sáng bị thiếu này. Với hệ thống đo sáng TTL thì việc hiệu chỉnh được làm hoàn toàn tự động.
3. Độ nét sâu của trường ảnh (« Depth of Field » hay « Profondeur de champ »)
Khái niệm này ám chỉ vùng ảnh nét ở phía trước và phía sau của điểm mà bạn canh nét. Trong chụp ảnh Macro thì độ nét sâu đóng một vai trò đặc biệt quan trọng và nó thay đổi tùy theo độ phóng đại của hình ảnh và khẩu độ mở của ống kính. Độ phóng đại càng lớn và khẩu độ ống kính càng rộng thì độ nét sâu của trường ảnh càng bé. Độ phóng đại nhỏ cùng với khẩu độ ống kính khép sâu sẽ cho D.O.F lớn. Bạn có thể kiểm tra D.O.F bằng một nút bấm nằm ở phía trước của thân máy ảnh.

4. Đảo ngược ống kính (“Reversed a Lens” hay “Inverser l’Objectif”)
Khi chụp ảnh thông thường thì chủ thể thường ở xa ống kính còn phim (hoặc sensor) thì lại ở rất gần. Khi ta tiến lại gần chủ thể thì tương quan giữa hai khoảng cách này thay đổi dẫn tới làm giảm chất lượng hình ảnh. Nếu bạn dung một ống kính không thuộc loại chuyên dụng cho ảnh Macro với độ phóng đại lớn thì bạn có thể làm tăng khả năng của ống kính bằng cách lắp ngược nó vào than máy ảnh bằng một vòng nối gọi là “Reversing Ring” hay “Bague d’inversion”.

5. Cự ly chụp ảnh
Ở đây ta đang nói v khoảng cách giữa đầu của ống kính và vật thể. Khi cự ly chỉnh nét càng gần thì khoảng cách này càng ngắn lại và như thế ống kính có thể làm cản trở một phần ánh sáng chiếu tới vật thể. Khi bạn thao tác chụp ảnh quá gần sẽ làm cho các loài vật sống trở nên khích động và khó chụp hơn. Trong trường hợp này bạn nên sử dụng một chiếc ống kính có tiêu cự lớn hơn để có thể chụp từ xa.

6. Độ rung của thân máy ảnh
Khi chụp ảnh Macro thì ngay những rung động nhỏ nhất cũng sẽ làm ảnh hưởng tới độ sắc nét và làm giảm chất lượng của hình ảnh.
Như thế bạn nên dùng chân máy ảnh hay một hệ thống cơ khí cho phép giữ bất động máy ảnh đồng thời dùng dây bấm mm hoặc điu khiển từ xa để có thể đạt được độ sắc nét cao nhất. Nếu máy ảnh của bạn không thể lắp thêm dây bấm mm thì bạn nên chụp bằng chế độ tự động. Trong trường hợp bạn chủ động chụp cầm tay thì nên sử dụng tốc độ cao nhất có thể.
---------------------------------------

* Tham khảo tài liệu của Nikon
Thiết bị dùng  trong chụp ảnh MACRO
Trong bài viết này NTL xin dành riêng cho kỹ thuật chụp ảnh Macro với máy SLR hay dSLR.
Các thiết bị của Nikon được dùng để minh họa, bạn hoàn toàn có thể tìm thấy các thiết bị tương đương với Canon, Minolta…

1. Thân máy ảnh (“Body” trong tiếng Anh, “Boîtier” trong tiếng Pháp)
Đây là bộ phận khá quan trọng nhưng nó lại không có tiếng nói quyết định lớn nhất trong chất lượng hình ảnh. Thêm nữa khi chụp ảnh Macro bạn sẽ chỉnh bằng tay là chủ yếu và tốc độ chụp không có nghĩa lý gì ở đây cả. Tuy nhiên việc có một chiếc thân máy ảnh với khả năng tương thích với nhiu loại thiết bị chụp ảnh Macro cũng là điu cần thiết. Bạn nên chọn loại thân máy ảnh có điu khiển từ xa (bằng dây nối hay tia hồng ngoại) hoặc có thể lắp thêm giây bấm mm.

2. Ống kính (“Lens” hay “Objectif”)
Trên lý thuyết thì tất cả các loại ống kính đu “có thể” dùng để chụp ảnh Macro nhưng bạn cũng nên lưu ý rằng có những ống kính được thiết kế chuyên cho một thể loại ảnh nhất định như chiếc 85mm f/1,4D dùng cho ảnh chân dung, lại không cho hình ảnh cực kỳ sắc nét và chi tiết như chiếc PC Micro-Nikkor 85mm f/2,8D. Bạn nên ưu tiên những ống kính có khẩu độ mở cố định (zoom hoặc tiêu cự cố định) vì chúng sẽ cho bạn khả năng thao tác rất lớn trong mọi điu kiện ánh sáng và chất lượng ảnh cũng cao hơn. Chẳng hạn như một chiếc 50mm f/1,4D dùng để chụp ảnh Macro sẽ cho kết quả rất đẹp.
Bên cạnh đó thì bạn có một gam ống kính chuyên dụng cho ảnh Macro của các hãng lớn như Nikon, Canon, Pentax…đồng thời các đồ “FOR” của Sigma, Tamron cũng khá chất lượng và giá thành rẻ. Dưới đây là các ống kính chụp ảnh Macro của Nikon:
- AF Micro-Nikkor 60mm f / 2.8D
- AF Micro-Nikkor 105mm f / 2.8D

- AF Micro-Nikkor 200mm f / 4D IF-ED

- AF Zoom-Micro Nikkor 70-180mm f / 4.5-5.6D ED

Bạn sẽ hỏi minh là tại sao lại dùng những chiếc ống kính đắt tin này trong khi có thể chụp ảnh Macro được bằng nhiu phương pháp khác nhau? Câu trả lời chính xác và ngắn gọn nhất là: chất lượng và tiện nghi. Không những chúng được thiết kế bằng những thấu kính đặc biết có chất lượng cao mà việc xử lý các lớp trang phủ cũng như hệ thống “CRC” (hiệu chỉnh cho ảnh chụp ở cự ly gần) trợ giúp rất hiệu quả cho chất lượng ảnh chụp. Trong mỗi chiếc ống kính Macro này đu có một bộ xử lý 4-bits được nối với hệ thống xử lý trung tâm của thân máy ảnh. Như thế tất cả các phép tính phức tạp của ảnh Macro được hoàn thành trong vòng một vài phần nghìn giây! Bạn chỉ việc tập trung vào khuôn hình và bấm máy.
Bạn cũng có thể thấy trong một số ống kính zoom có chức năng Macro (như Sigma 28-135mm f/3.8-5.6 Aspherical IF Macro) điu này có nghĩa là bạn hoàn toàn có thể sử dụng nó để chụp ảnh Macro. Tuy nhiên độ phóng đại của ảnh không lớn, thường là ở tỉ lệ 1:3 tùy theo ống kính, nhưng thao tác rất dễ dàng.

3. Kính “Close-up” (“Lentille de proximité”)
Bạn có thể dung từng chiếc rời hay kết hợp chúng với nhau và gắn ngay lên đầu ống kính giống như một chiếc kính lọc UV bình thường.
Nhờ vào vị trí này mà nó không h làm ảnh hưởng đến các tính năng tự động của ống kính như AF, AE. Kính “Close-up” có thể dung với ống kính tiêu cự cố định, zoom hoặc Tele. Độ phóng đại là cố định với từng loại kính bạn chỉ việc chỉnh tiêu cự mà thôi. Thông thường thì khi số của kính “Close-up” càng cao thì bạn có thể chụp ảnh càng gần chủ thể. Chẳng hạn như gam kính Close-up của Nikon có các số từ N°0 đến N°6T; trong đó các số 0, 1, 2 dùng cho các tiêu cự tới 55mm còn từ 3T đến 6T chuyên cho các ống kính tele (chúng được thiết kế bằng thấu kính kép).

4. Vòng nối (“Auto Extension Ring” hay “Bague Allonge Auto”)
Những chiếc “Ring” này cho phép bạn tăng khoảng cách giữa ống kính và thân máy ảnh, điu này có nghĩa là làm tăng độ phóng đại của hình ảnh. Thường có nhiu kích thước của các vòng nối khác nhau tùy theo nhu cầu sử dụng. Chúng có thể được dùng riêng rẽ hay kết hợp lại với nhau. Cách sử dụng những vòng nối này sẽ xác định phương pháp đo sáng của bạn được dùng ở khẩu độ ống kính mở cực đại hay ở một chỉ số thực. Trong cả hai trường hợp này thì kỹ thuật TTL sẽ tự động hiệu chỉnh lượng sáng cho độ dài thêm của vòng nối.
Bạn sẽ chụp hoàn toàn bằng “Manuel” hoặc Av với tiêu cự chỉnh bằng tay.
Nikon có các vòng nối sau: PK-11A, PK-12, PK-13, PN-11.

5. Khẩu nối “Teleconverter” (“Téléconvertisseur”)
Mỗi một khẩu nối này tương thích với một loại ống kính nhất định và làm chức năng gắn giữa ống kính và thân máy. Không những nó cho phép tăng thêm tiêu cự của ống kính mà “Teleconverter còn cho phép bạn thao tác chụp ảnh “Close-up”. Các chế độ tự động phơi sáng và TTL được giữ nguyên. Nikon có các khẩu nối sau:
- TC-301: dùng cho ống kính có tiêu cự nhỏ nhất là 300mm hoặc lớn hơn. Đặc biệt dung được cho Micro-Nikkor 200mm f/4 IF.
- TC-201: dùng cho ống kính có tiêu cự bằng hoặc nhỏ hơn 200mm
- TC-14A: dùng cho ống kính có tiêu cự bằng hoặc nhỏ hơn 200mm
- TC-14B: dùng cho ống kính có tiêu cự bằng hoặc lớn hơn 300mm

6. Hộp nối mm (“Bellow” hay “Soufflet”)
Ưu điểm của loại thiết bị này là nó có thể dung được với rất nhiu ống kính khác nhau và đơn giản trong thao tác. Tùy theo thân máy mà có thể bạn sẽ phải dùng thêm vòng nối “Extension Ring” như để nối SLR Nikon F5 hoặc F100 với Bellow PB-6. Khi F5 hay F3 dùng mô-tơ MD-4 thì bạn lại cần thêm thiết bị PB-6D. Cũng giống như các loại khẩu nối ở trên, bạn hoàn toàn có thể nối các “Soufflet” với nhau, chẳng hạn như nối thêm PB-6E vào PB-6 để làm tăng gấp đôi độ phóng đại. Với một chiếc ống kính 20mm lắp ngược bạn có thể đạt tới độ phóng đại x24 với hệ thống này! Đi kèm với Soufflet có khá nhiu các thiết bị phụ trợ như dùng để sao chép phim dương bản, âm bản (PS-6) hay giá đỡ cho mẫu vật (PB-6M)…cũng như dây bấm mm (AR-7), giá đỡ chỉnh tiêu cự “Focusing Stage” (Banc d’approche) PG- 2.

7. Vòng nối ngược (“Reversing Ring” hay “Bague d’inversion”)
Loại vòng nối ngược BR-2A cho phép bạn lắp ngược một ống kính có đường kính 52mm vào thân máy ảnh hay một chiếc Soufflet PB-6.
Trong khi đó chiếc BR-5 lại dùng cho ống kính 62mm nối với BR-2A và lắp vào thân máy.

8. Dây  bấm mm hay điu khiển từ xa. (« Cable Release, Telecommande » hay “Déclencheur mécanique, Télécommande”)
Chúng có tác dụng làm nhẹ đi các thao tác khi chụp ảnh, tránh làm rung máy dẫn đến ảnh nét không căng.

9. Đèn Flash
Để đơn giản hóa việc chiếu sáng trong chụp ảnh Macro thì hầu như các hãng đu có chiếc đèn Flash chuyên dụng dành cho việc này.
Chẳng hạn như Nikon có chiếc SB-29s. Cấu tạo của nó gồm hai nguồn sáng nhỏ độc lập ở hai bên nhằm làm giảm bớt bóng đổ một chiu như khi ta chụp với một đèn đơn lẻ. Bạn có thể kích hoạt đồng thời cả hai đèn này hay chỉ dùng duy nhất một đèn. Dĩ nhiên là bạn có thể thay đổi cường độ ánh sáng của đèn.
Bên cạnh đó thì chiếc flash mà bạn vẫn hay sử dụng hoàn toàn có thể là một nguồn sáng lý tưởng cho ảnh Macro,chẳng hạn chiếc SB- 800 với kỹ thuật i-TTL. Bạn nên dùng một dây nối TTL để thay đổi vị trí đèn flash trên nóc máy ảnh cũng như kết hợp nhiu đèn flash cùng một lúc.
Để làm giảm bớt độ gắt của ánh sáng đèn Flash người ta hay dùng thêm những thiết bị làm tán xạ ánh sáng như “Diffusion Dome”, “Reflector”…Tuy nhiên bạn cần phải tính lại cường độ ánh sáng của đèn tùy theo thiết bị.

Chiếc SB-29s 

Hệ thống giá đèn dùng cho Macro.

10. Các tấm phản xạ và thiết bị phụ trợ
Đúng như với tên gọi của chúng, các tấm phản xạ sẽ giúp bạn cân bằng tốt hơn ánh sáng tới vật thể.

Tấm phản xạ gắn trên giá đỡ.

11. Kínhh lọc phân cực (“Circular Polarizer” hay “Polarisant Circulaire”)
Loại kính này không những chỉ có tác dụng xóa đi những phản xạ không cần thiết mà nó còn làm tăng độ bão hòa của mầu sắc, rất cần thiết trong ảnh Macro.

12. Khuôn ngắm chuyên dụng
Đây là những thiết bị đặc biệt đòi hỏi những thân máy ảnh PRO có khả năng thay đổi khuôn ngắm (Viewfinder) như Nikon F5. NTL xin được giữ nguyên tên gốc bằng tiếng Anh cho tiện việc tra cứu : DE-3 High-Eyepoint, DW-3 Waist-level & DW-4 6x Magnifying Finders,
DP-30 High-Eyepoint, DW-30 Waist-level & DW-31 6x Magnifying Finders, DR-4 Right-Angle Finder. Tác dụng của chúng là giúp cho việc khuôn hình dễ dàng và thoải mái hơn trong mọi tư thế chụp của ảnh Macro.

13. Chọn máy ảnh (« Tripod » hay «Trépied”)
Tiêu chuẩn đầu tiên là độ chắc chắn (thường đi kèm với trọng lượng khá nặng) để đảm bảo giữ ổn định thân máy trong quá trình tháo tác cũng như chụp ảnh. Để tiện dụng cho việc chỉnh nét thì bạn nên dùng thêm một chiếc “Focusing Stage” (Banc d’approche).

“Focusing Stage” của Manfrotto.

14. Sách tham khảo :
Sách tiếng Anh :
- Nature Photography Close Up: Macro Techniques in the Field by Paul Harcourt Davies & Peter Parks: $31.60
- The Complete Guide to Close Up & Macro Photography by Paul Harcourt Davies: $26.36
- Macro and Close-Up Photography Handbook by Stan Sholik & Ron Eggers: $31.60
- Complete Guide to Close-Up & Macro Photography by Paul Harcourt Davies: 31,72€
- Closeups in Nature by John Shaw: $15.75
- Macrophotography: Learning from a Master by Gilles Martin & Ronan Loaec: $27.20
- Close-up Photography by Alan R. Constant: $28.53
- Digital Nature Photography by Jonathan Cox: $16.97
- Digital Abstract and Macro Photography by Ken Milburn: $29.99
- 100 Flowers by Harold Feinstein
- Art and Science of Butterfly Photography by William Folsom
- Flower by Lynn Goldsmith
- Flowers: Portraits of intimacy by Adam Kufeld
- Foliage by Harold Feinstein
- How to Photograph Close-ups in Nature by Nancy Rotemberg & Michael Lustbader
- How to Photograph Insects & Spiders by Larry West
- The Metamorphosis of Flowers by Claude Nuridsany & Marie Perennou
- Hidden Beauty: Microworlds revealed by France Bourely
- Searchings: Secret Lanscapes of Flowers by Barbara Bordnick
- The Garden by Freeman Patterson

Sách tiếng Pháp:
- Pratique de la macro photo de Durand.
- La macro photographie de Paul Harcourts Davies.
- La macro photographie de Gilles Martin et Ronan Loaëc
- La macrophotographie au fil des saisons de Gérard Blondeau.
- Mieux photographier en gros plan de Michael Busselle.

Bây giờ NTL xin được trình bày những kinh nghiệm cá nhân của riêng mình trong việc chụp ảnh macro với máy ảnh dCam. Xin lưu ý rằngtrong giới hạn bài viết này NTL mới chỉ d cập tới các loại máy ảnh kỹ thuật số phổ thông mà tính năng macro được thêm vào như một chi tiết "vui vẻ" của máy chứ không đ cập tới các thiết bị Macro nhà ngh. Kể ra với máy ảnh dCam mà chụp macro đẹp thì mới thích nhỉ?

Bác Nguyễn Việt sử dụng con Canon "sứt vòi" G2 là vẫn "siêu" hơn con S400 mà mình dùng làm thử nghiệm đấy nhé. Đơn giản bởi vì có lẽ đa phần các bạn đang sở hữu những chiếc dCam mà chúng không cho phép can thiệp vào các chế độ cao hơn như ưu tiên tốc độ hay ưu tiên khẩu độ chụp vậy. Thế nhưng Macro luôn nằm trong khả năng của bạn.
Vậy thì ưu điểm của các máy dCam trong chụp macro là gì?
- Giá tin rẻ mà có chức năng macro, điu này quan trọng ra phết
- Dễ sử dụng
- Độ nét sâu: cái này có cả hai mặt lợi hại. Với những người chụp macro nghiệp dư thì việc tính toán độ nét sâu và bố cục của điểm nét là phức tạp. Độ nét sâu của dCam cho phép bạn chụp ảnh đẹp mà không sợ bị sai nét. Thế nhưng bên cạnh đó nó lại thể hiện một nhược điểm cực lớn là không thể làm mờ phông hình dẫn tới việc không làm nổi bật được chủ thể. Tuy nhiên ta vẫn có thể tìm mẹo khắc phục được.

Một tấm ảnh macro thường dễ đem lại cho ta ấn tượng trong cái nhìn thoáng qua ban đầu nhưng để thật sự thành công thì bạn phải tìm tòi v bố cục để thể hiện chủ thể một cách độc đáo. Vậy chụp macro với dCam thì nên canh nét vào đâu trên một bông hoa chẳng hạn?

Câu trả lời lại phụ thuộc vào chủ ý của bạn. Chẳng hạn nếu bạn chụp một bông hoa đang nở và muốn thể hiện các cánh hoa thì việc canh nét vào chúng là hợp lý, trong trường hợp bạn muốn thể hiện những nhị hoa thì điểm nét phải đặt vào đây. Nên lưu ý rằng ở cự ly rất gần thì độ nét sâu có thể thay đổi theo từng mm. Nhưng cho dù bạn đã chỉnh nét chính xác như thế nào chăng nữa thì việc kiểm tra lại ảnh chụp trên màn hình máy tính là cần thiết. Màn hình LCD của dCam hay cho ta cảm giác nhầm v độ nét của ảnh. Trong ví dụ dưới đây hình ảnh trên LCD là hoàn toàn làm bạn hài lòng nhưng kết quả lại không thật sự như ý muốn.

Ảnh minh hoạ số 1.
Giá trị của độ sâu trường ảnh nằm ở đâu? Như mình đã nói ở trên thì ngoài việc làm nổi bật chủ thể độ sâu trường ảnh còn có thể tạo ấn tượng v không gian chiu sâu cho ảnh macro. Bạn có thể dễ dàng nhận thấy với các máy dCam thì bạn luôn có hai khoảng cách tương ứng với hai vị trí của ống kinh Zoom. Bạn sẽ chụp được ở cự ly gần nhất khi ống kính là góc rộng, bạn sẽ phải chụp ở cự ly xa hơn khi chọn vị trí ống kính télé. Vậy có gì khác nhau ở đây? Câu trả lời thật đơn giản: DOF - Deep Of Field, độ sâu trường ảnh. Xin được lấy một ví dụ của NguoiNongDan từ topic Những khoảnh khắc không lời của cảm xúc
Ảnh minh hoạ số 2
Ta nhận thấy rõ nn xanh của cỏ phía sau hoàn toàn mờ đi nhưng vẫn đủ để ta nhìn thấy những đốm hoa mầu trắng. Chủ thể hoàn toàn nội bật, một bố cục đơn giản và chính xác trong ảnh macro. Một trong những mẹo để tạo phông mờ trong ảnh macro với ống kính góc rộng là chọn hướng chụp với hậu cảnh thật xa!
Khi chụp Macro ở vị trí ống kính góc rộng thì độ nét rất sâu, điu này lại có lợi khi bạn muốn thể hiện một ảnh hoa có bố cục rộng. Độ nét sẽ bao phủ gần như toàn bộ khuôn hình, chỉ những chi tiết ở một khoảng cách đủ xa mới bị mờ đi. Các bạn xem ví dụ dưới đây:

Ảnh minh hoạ số 3
Canon PowerShot S400
Shooting Mode: Manual
Photo Effect Mode: Off
Tv( Shutter Speed ): 1/320
Av( Aperture Value ): 7.1
Metering Mode: Evaluative
Exposure Compensation: -2/3
ISO Speed: 200
Focal Length: 7.4 mm
Image Size: 1600x1200
Image Quality: Superfine
White Balance: Cloudy
AF Mode: Single AF
AF Range Mode: Macro
File Size: 939KB

Tấm ảnh này được chụp vào một buổi chiu nhiu mây. Ánh sáng trong nhưng không đủ mạnh, với S400 thì mình đã chủ động đặt ISO ở 200 để tăng tốc độ chụp đ phòng bị rung tay. Ảnh có độ nét sâu khá đu do mình chụp macro ở vị trí ống kính góc rộng.
Ta sẽ phân tích v ảnh sáng trong phần tiếp theo.
Khi bạn chụp macro ở vị trí ống kính télé thì ta rất dễ dàng cảm thấy ngay những khó khăn kỹ thuật: thứ nhất là khoảng cánh giữa máy ảnh và hoa xa hơn, khó canh nét hơn và ống kinh télé cũng kém nhạy sáng hơn, đòi hỏi tốc độ chụp cao hơn để tránh rung. Nếu có thể thì bạn nên dùng chân máy ảnh hoặc tìm một điểm tựa thích hợp để có thể chụp ảnh thoái mái hơn. Lợi thế của chụp ảnh macro ở vị trí télé là độ sâu của trường ảnh rất nhỏ, bạn có thể làm mờ phông hình như những ống kính macro chuyên nghiệp

Ảnh minh hoạ số 4
Canon PowerShot S400
Shooting Mode: Manual
Photo Effect Mode: Off
Tv( Shutter Speed ): 1/500
Av( Aperture Value ): 4.0
Metering Mode: Evaluative
ISO Speed: 200
Focal Length: 15.4 mm
Image Size: 1600x1200
Image Quality: Superfine
White Balance: Cloudy
AF Mode: Single AF
AF Range Mode: Macro
File Size: 888KB

Thử hình dung nếu mình sử dụng vị trí ống kính góc rộng để chụp macro trong trường hợp này thì các bông hoa ở phía sau cũng sẽ khá nét dẫn tới việc không làm nổi bật được bong hoa ở tin cảnh do phông bị rắc rối. Macro ở vị trí ống kính télé là một giải pháp khá hiệu quả cho tất cả các máy dCam.
Trong phần tiếp theo này NTL sẽ cùng bạn tìm hiểu cách đo sáng và cách hiệu chỉnh ánh sáng để có được một bức ảnh macro đẹp như ý muốn. Tuy nhiên ta cũng chỉ giới hạn trong phạm vi macro cho dCam và kỹ thuật amateur mà thôi. Chi tiết v đo sáng xin được dành một topic khác sau này.

Đầu tiên là lựa chọn ánh sáng. Bạn chụp macro bằng ánh sáng tự nhiên hay ánh sáng nhân tạo? có dùng đèn flash hay không? Bạn chụp hoa tự nhiên hay hoa cắm và có bố cục? NTL sẽ giới hạn trong lĩnh vực chụp hoa ngoài trời với ánh sáng tự nhiên vì có lẽ đây là điu bạn hay làm trên đường đi du lịch.

Ánh sáng nào đẹp nhất để chụp hoa?
Ánh sáng thích hợp nhất để chụp hoa ngoài trời là ánh sáng tản cho độ tương phản đu và khá dịu. Ánh nắng chói chang thường hay gây ấn tượng bắt mắt với bạn nhưng để chụp ảnh hoa macro thì lại là điu không hay đơn giản vì độ chênh sáng quá lớn, khó xử lý đối với dCam. Nếu bạn nhất thiết muốn chụp hoa ngoài trời nắng thì có thể che bớt ánh sáng trực tiếp đi bằng một tấm vải mỏng mầu ghi nhạt, bạn sẽ có hiệu quả khá thú vị đấy. Thời tiết đầy mây lại là lý tưởng cho chụp ảnh hoa vì bản thân các đám mây này đã là một chiếc kính lọc ánh sáng cho bạn rồi. Ở Việt nam thì ánh sáng vào lúc cuối buổi chiu rất đẹp, hay là ánh sáng ngay sau một cơn mưa cũng rất đẹp cho ảnh hoa macro.

Với dCam thì nên chọn chế độ cân bằng trắng nào?
Mình dùng "Daylight" để có thể tái tạo lại mầu sắc trung thực nhất. Các chế độ tăng cường hiệu quả nghệ thuật thường làm cho hình ảnh không chính xác với các dCam, bạn không nên dùng.

Chọn chế độ đo sáng nào để chụp hoa?
Ở cự ly gần như vậy thì mình hay sử dụng cách đo sáng phức hợp của máy, cách này gần giống với các thiết bị đo sáng cầm tay, hơn nữa ở cụ ly gần chủ thể choán gần hết khuôn hình bạn sẽ không sợ lỗi đo sáng quá lớn. Tuy nhiên việc hiệu chỉnh ánh sáng lại là cần thiết.

Vậy ta nên hiệu chỉnh ánh sáng như thế nào?
Các máy ảnh dCam thường có xu hướng đo thừa sáng, điển hình là các máy của Canon, khẩu độ chênh lệch khá nhẹ 1/3Ev nhưng nhiu khi cũng đủ để làm bạn không hài lòng. Thêm nữa độ phản xạ ánh sáng của mỗi mầu hoa cũng khác nhau. Nếu ta nói độ phản xạ ánh sáng chuẩn là 18% thì với các loại hoa mầu trắng và mầu vằng độ phản xạ này lại lớn hơn nhiu. Do đó cần hiệu chỉnh ánh sáng.
Theo dõi ví dụ dưới đây sẽ giúp bạn hiểu dễ dàng hơn tác dụng của hiệu quả chỉnh sáng Ev. Ảnh chụp bằng máy Canon S400, ISO 50, Daylight.
- Hình 1, ảnh chụp hoàn toàn theo chế độ đo sáng tự động của máy: Ev+/-0

- Hình 2, hiệu chính sáng Ev-1/3

- Hình 3, hiệu chỉnh sáng Ev-2/3

- Hình 4, hiệu chỉnh sáng Ev-1

- Hình 5, hiệu chỉnh sáng Ev+1/3

- Hình 6, hiệu chỉnh sáng Ev+2/3

- Hình 7, hiệu chỉnh sáng Ev+1


Phân tích:
Trong hình 1, Ev+/-0, ta có thể nhận thấy ngay rằng ảnh thừa sáng rất nhẹ. Các chi tiết trên cánh hoa và mặt lá không được thật sự nổi bật.
Trong hình 2, Ev-1/3, độ tương phản giữa các cánh hoa tốt hơn, mầu sắc bão hoà đẹp hơn và trên mặt ls ta có thể thấy rõ các chi tiết của đường gân cũng như chất lục diệp. Phơi sáng đúng.
Trong hình 3, Ev-2/3, ta có thể thấy ảnh bị thiếu sáng rất nhẹ trên bông hoa và rõ hơn trên mặt lá.
Hình 4, Ev-1, không cần phải nhìn lâu bạn cũng có thể đồng ý với NTL rằng ảnh này thiếu sáng không thể chấp nhận được.
Hình 5, Ev+1/3, ảnh thừa sáng trong mức độ vẫn có thể chấp nhận được nhưng ảnh mất hẳn chiu sâu do độ tương phản quá yếu, đặc biệt là giữa các tầng lá.
Hình 6 và 7 thì ảnh hoàn toàn bị thừa sáng, các chi tiết trong vùng ánh sáng mạnh bị "cháy", độ tương phản không thể chấp nhận được.

Hy vọng với ví dụ trên đây các bạn đã có thể hiểu được phần nào tầm quan trọng của việc hiệu chỉnh ánh sáng trong chụp ảnh hoa macro. Kỹ thuật số cho phép ta thấy ngay hiệu quả công việc và bạn có thể tự rút ra cho mình những kinh nghiệm bổ ích nhất mà không một trang web hay một quyển sách nào có thể dạy bạn được.

Macro Lighting System
Bạn muốn chụp macro bằng đèn flash?
Chiếc đèn gắn sẵn trên máy không giúp gì được bạn trong trường hợp này vì với cự ly quá gần nó sẽ làm "cháy" ảnh của bạn. Tuy nhiên bạn có thể mua thêm đèn flash chuyên dùng cho macro như chiếc Cool Light của Nikon dùng cho các máy dCam. Với các máy dCam có thể gắn thêm đèn flash bên ngoài thì bạn đừng bao giờ dùng flash trực tiếp mà nên phả đèn vào một tấm phản xạ. Kỹ thuật chụp macro bằng flash NTL sẽ nói trong một bài khác kỹ lưỡng hơn.

Bạn muốn dùng ánh sáng nhân tạo?
Không cần thiết phải mua các thiết bị chuyên dụng đắt tin. Bạn hãy thử mẹo nhỏ này nhé: dùng một chiếc hộp nhựa mỏng mầu trắng (như kiểu hộp đựng thức ăn), đặt mẫu vật cần chụp vào trong đó, phần nn bạn có thể lót giấy mầu bên ngoài tuỳ theo ý thích. Trên đỉnh hộp nhựa bạn chỉ việc dùng chiếc đèn bàn học để gần lại và như thế bạn đxa có một thứ ánh sáng tản tuyệt vời để chụp macro.
Cảm ơn tác giả Karol Hawn đã cho chúng ta một mẹo lý thú. Nhiếp ảnh đôi khi có những ý tưởng trùng nhau một cách thú vị.
Cùng một chủ đ bạn có vô số cách để thể hiện chúng. Chụp một bông hoa bạn có thể hướng tới một mục đích cụ thể như làm post card, ảnh minh hoạ, ảnh tư liệu hay đơn giản chỉ là để làm một cái phông cho màn hình máy tính chẳng hạn. Để đạt được mục đích của mình bạn có các phương tiện sau để thể hiện:

- Bố cục
- Ánh sáng
Như NTL đã nói ở trên là ánh sáng tản đu đặn rất thích hợp cho việc chụp ảnh hoa macro. Vấn đ ở chỗ là ngoài tự nhiên ánh sáng không có nhiu chiu khác nhau để tôn vẻ đẹp của bông hoa lên cũng như để làm giảm những bóng đổ quá mạnh không cần thiết. Vậy liệu có giải pháp nào không? Có đấy, rất nhiu nữa là khác nhưng NTL xin giúp bạn một mẹo vô cùng thực tế và đễ làm. Đó là dùng thêm những tấm phản xạ ánh sáng tự tạo dùng trong khi du lịch. Trong bếp của bạn hẳn có nhiu thứ để gói thức ăn? Bạn hãy lấy cho mình một ít giấy nhôm nhé, vò nát nó đi một cách nhẹ nhàng và đu đặn rồi cuộn lại xếp vào trong túi máy ảnh, bạn đã có một thứ đồ ngh rất "PRO" rồi đấy

Khi bạn muốn chụp ảnh hoa ngoài trời và muốn có thêm nguồn sáng thứ hai thì bạn chỉ việc lấy tấm giấy nhôm này ra, bọc nó ra ngoài một tấm bìa cứng hay một quyển tạp chí chẳng hạn và lựa chiu ánh sáng để dùng nó như một nguồn sáng tự nhiên thứ 2. NTL xin đảm bảo rằng những tấm ảnh hoa của bạn sẽ khác. Thử xem nhé và post ảnh lên cho mọi người cùng thưởng thức.
Chụp ảnh hoa bạn không nên chụp trong điu kiện ánh sáng chiếu thẳng trực diện vào bông hoa vì như thế sẽ không đẹp. Thế còn ánh sáng ngược chiu? A, câu hỏi này rất thú vị! Sử sụng ánh sáng ngược chiu là con dao hai lưỡi. Nếu bạn muốn lấy dáng hình của chủ thể thì loại ánh sáng này sẽ giúp bạn rất nhiu, bạn chỉ cần bớt đi từ -1Ev đến -2Ev là hiệuq ủa sẽ như ý muốn. Còn để thể hiện bông hoa đẹp thì nó lại là trở ngại cho bạn đấy trừ khi ánh sáng này thật nhẹ và bạn tìm được một góc bấm máy thích hợp. Trong ví dụ dưới đây ảnh hoa được chụp bằng ánh sáng ngược cuối giờ chiu, trong trẻo và nhẹ nhàng. Bạn có thể thấy rõ hiệu quả thẩm mỹ được tạo nên do ánh sáng vin. Trong từng trường hợp cụ thể bạn hãy thử "bracketing" thêm và bớt ánh sáng nhé để tìm ra giải pháp tối ưu cho tấm ảnh của mình.
Canon PowerShot S400
Shooting Mode: Manual
Photo Effect Mode:Off
Tv( Shutter Speed ): 1/250
Av( Aperture Value ): 2.8
Metering Mode: Evaluative
Exposure Compensation: -1/3
ISO Speed: 200
Focal Length: 7.4 mm
Image Size: 1600x1200
Image Quality: Superfine
White Balance: Cloudy
AF Mode: Single AF
AF Range Mode: Macro
File Size: 962KB

Một ví dụ khác v ảnh hoa với ánh sáng ngược chiu của bạn Nguyễn Việt chụp với thông số: Tv 1/60 Av 4.0 Focal Length 21.0mm.





Ấn tượng đẹp trong tấm ảnh này là ánh sáng ngược hay đúng hơn là ánh sáng chếch làm rực lên mầu trắng của những cánh hoa và làm "trong" mầu lá xanh. Trong trường hợp này nếu bạn có thể canh sáng đơn giản bằng "spot" vào bông hoa để làm tăng độ tương phản cho toàn ảnh thì ấn tượng sẽ hay hơn nhiu lắm.
--------------------------------


V-5, CHỤP ẢNH BÁO CHÍ

Như hứa đã lâu trong mục "Những bưc ảnh sống mãi với thời gian", hôm nay tôi sẽ đăng các tài liệu v Ảnh báo chí, vì không đủ thời gian để biên tập lại nên chủ yếu là copy và dán theo sự xắp xếp của cá nhân. Hy vọng sẽ được trao đổi nhiu với các thành viên v chủ đ này.
Các tài liệu tham khảo:
1. Ngh làm báo
2. Báo chí hiện đại nước ngoài: những quy tắc và nghịch lý
3. Các thể loại báo chí
4. Phóng sự báo chí hiện đại
5. Ảnh báo chí
6. Nghệ thuật thông tin
...
Các tài liệu sẽ được bổ xung tên tác giả, nhà xuất bản sau nếu bạn nào muốn quan tâm
Trong các thể loại ảnh như ảnh thời trang, ảnh tư liệu, ảnh quảng cáo, ảnh mỹ thuật thì Ảnh báo chí được coi là gần với Ảnh nghệ thuật nhất. Nhiu tấm ảnh báo trí ngày xưa nay đu được nằm trong những tuyển tập Ảnh nghệ thuật của thời đại 1. Khái niệm v ảnh báo chí:
Không kể các hình ảnh minh họa, ảnh báo chí ở Việt Nam hầu như chỉ tồn tại ở 2 hình thức: tin ảnh và phóng sự ảnh. Tin ảnh là một bức ảnh duy nhất chụp một sự kiện vừa diễn ra với lời chú thích ảnh nêu rõ ai, việc gì, ở đâu, ra sao và tại sao theo đúng yêu cầu cơ bản của một bản tin vắn -nhưng ở đây hình ảnh lại chính là thông tin chủ yếu. Trong khi đó, phóng sự ảnh lại là một tập hợp nhiu hình ảnh tường thuật lại một sự kiện hay một chủ đ mang tính thời sự. Khái niệm v tin ảnh là một khái niệm tương đồng giữa báo chí Việt Nam và báo chí quốc tế nhưng chính khái niệm phóng sự ảnh lại có nhiu điểm dị biệt. Những hình thức mà chúng ta thường gọi chung là "phóng sự ảnh" lại được báo chí quốc tế phân định thành bốn nhóm khác nhau:
1.1. PHOTO STORY: Phóng cách phóng sự ảnh lâu đời nhất và đơn giản nhất, đặc trưng bằng một loại ảnh thuật lại một sự việc với một chủ đ cụ thể. Ví dụ: đời sống người dân chài, ô nhiễm môi trường ở khu chung cư mới, ...). Mặc dù sự việc được tường thuật bằng hình ảnh, một bài viết ngắn tổng quát và những chú thích ảnh chi tiết phải đi kèm với hình ảnh. Cái này chúng ta tạm gọi là PHÓNG SỰ ẢNH.
1.2. PHOTO PORTFOLIO: Thuật ngữ này hiện nay được các nhà nhiếp ảnh hay phóng viên ảnh sử dụng để trình bày một tập hợp nhiu bức ảnh riêng lẻ hoặc nhiu loạt ảnh khác nhau. Ở phương Tây, photo porfolio chính là cách tự giới thiệu tốt nhất của một nhà nhiếp ảnh hay phóng viên ảnh khi đi xin việc làm. Trong ngh báo, thuật ngữ này cũng được dùng để chỉ một tập hợp ảnh báo chí nhưng không nhất thiết phải có một chủ đ duy nhất và cụ thể . Ví dụ: một bộ photo porfolio gồm 10 bức ảnh v “Thành Phố Hồ Chí Minh hôm nay” hay “Hà Nội đón xuân”,… Chúng ta tạm gọi là Ảnh Bộ.
1.3. PHOTO FEATURE: Thuật ngữ này được hãng thông tấn Asscociated Press (AP) cùng nhiu hãng tin khác sử dụng để chỉ một bức ảnh duy nhất hay một tập hợp ảnh nhỏ gồm những hình ảnh không mang tính chất thời sự hay tin tức. Đó là một hay nhiu bức ảnh không có thời gian tính và thường dùng để minh họa nhẹ nhàng cho các chuyên mục đặc biệt. Ta tạm gọi là ẢNH CHUYÊN MỤC. Ảnh chuyên mục – dù là ảnh đơn hay ảnh bộ - cũng có thể là ảnh chụp phong cảnh, thú vật, thời trang trẻ em, những sự kiện khôi hài … nhưng phải đem lại cho độc giả điu gì đó mới lạ v thế giới chung quanh. Mọi nhật báo ngày nay đu cần cả những ảnh thời sự nóng bỏng lẫn những ảnh đời thường để cho trang báo có nội dung mở và bớt nặng n.
1.4. PHOTO ESSAY: Đây là hình thức ảnh báo chí được hình thành và phát triển từ những năm 1920, chủ yếu ở Đức và Pháp. Photo Essay có thể đ cập đến một chủ đ nghiêm túc (chẳng hạn như các vấn đ xã hội, kinh tế, môi sinh, …) nhưng cũng có thể tập trung vào cuộc sống và công việc của những nhân vật nổi tiếng trong thế giới nghệ thuật, chính trị, hay cũng có thể tập trung vào các chủ đ như mỹ thuật, sân khấu, văn học, kiến trúc, lịch sử,…. Trong các thể loại ảnh báo chí, phóng sự và bút ký là hai thể loại tương đương nhưng phóng sự mang đậm chất thông tấn, còn bút ký in rõ dấu ấn văn chương. Photo Essay cũng giống như một bài bút ký, tác giả có thể bộc lộ những cảm xúc riêng tư và những phản ứng chủ quan từ tâm hồn mình. Nhiu photo essay nổi tiếng ngày nay được xem như những tác phẩm của nghệ thuật nhiếp ảnh. Chúng ta tạm gọi photo essay là bằng từ Ký Sự Ảnh.

Báo chí nói chung có thể xếp thành 4 loại:
- Báo viết
- Báo nói
- Báo hình (báo chí truyn hình)
- Báo điện tử
và ảnh báo chí từ trước đến nay gắn với báo viết là nhiu, chúng ta chắc ai mà trong tuần, trong ngày mà chả đọc một vài tờ báo. Lúc thì v Thể thao, Mua bán, An ninh, Thời báo kính tế... Giả sử những hình ảnh Văn Quyến trong trại giam hay thầy Hồ không có mặt trong các trang viết trên các báo, chắc sẽ giảm sự quan tâm và hấp dẫn người đọc khi xem bài đó ở các báo. Chúng ta có thể không nhớ hết nội dung của bài báo mà chúng ta quan tâm, nhưng hình ảnh "đặc trưng" sẽ còn đọng mãi.
Ảnh báo chí (ABC) được coi như câu chuyện bằng hình ảnh, máy ảnh là cây bút là phương tiên ghi nhận một khoảnh khắc trong thời gian, cái phút giây điển hình khi hình ảnh đúc kết một câu chuyện. Mà chúng ta đã "tranh luận" khá nhiu - cái mà ông Henri Cartier- Bresson gọi là "Khoảnh khắc quyết định".
Câu chuyện ở đây rất đa dạng, có thể là một bức ảnh thời sự vừa nóng vừa thổi , ở những nơi chiến tranh ác liệt, một pha tranh bóng gay cấn, một phóng sự v Tây tạng huyn bí gian nan và cũng gần hao mất con Nikon D200 như IMIM , cái bắt tay lịch sử của Thủ tướng Phan Văn Khải với Tổng thổng Mỹ G.Bush trên đất Mỹ , hay đơn giản là cuộc họp của thường vụ huyện Simacai chỉ đạo cho chuyến đi vừa qua của chúng ta, cũng có thể là một bức chân dung của con người trong một sự kiện nào đó... Tất cả đu là ảnh báo chí, bởi dù lớn hay nhỏ dù nó là "đỉnh cao" hay "đỉnh thấp", nhưng những khoảnh khắc ấy là thành phần mật thiết của lịch sử, gìn giữ những khoảnh khắc cho tương lai.
2. Đạo đức ngh nghiệp của phóng viên ảnh:
Vậy khái niệm cơ bản v ABC chúng ta đã có. Túm lại là:
Tường thuật bằng hình ảnh
Tóm khoảnh khắc điển hình
Cái "khoảnh khắc quyết định"

Đó là Ảnh báo chí.
Làm điu gì nếu muốn thành công cũng phải có sự đam mê, chụp ABC cũng không ngoại lệ. Những nó khác các nhà nhiếp ảnh ở chỗ:
Trước khi người phóng viên ảnh (PVA) chụp ảnh, anh ta phải là một nhà báo, rồi sau đó mới là một nhà nhiếp ảnh.
Vậy thì trước hết đạo đức của người làm báo, PVA phải tuân thủ. Người ta vẫn còn tranh cãi là đạo đức ngh nghiệp nhà báo có trước hay có sau ngh báo . Người ta cũng nói rằng Xêda là người đầu tiên có ý tưởng đàm đạo với bè bạn, những vấn đ cấp thiết bằng thư từ, khi mà sự bận rộn không cho phép gặp nhau trực tiếp. Đó là sự giao tiếp linh hoạt, không qua trung gian, còn khi đọc báo. Nhà báo đã là trung gian để đưa những thông tin đến người đọc, chính vì vậy mà đòi hỏi "đạo đức" luôn được đ cao ở những Nhà báo.
Vấn đ này xin không bàn thêm, quay lại với PVA, ngoài đạo đức ngh nghiệp phải tuân thủ. Anh ta còn phải tuân thủ những quy tắc riêng của từng hãng thông tấn, từng tờ báo v hình ảnh. Các chi tiết có thể khác nhau những nguyên tắc chung vẫn phải là:
- Những bức ảnh luôn luôn thuật lại sự thật.
- Những bức ảnh không bao giờ được phép thay đổi hay chế tác theo bất kỳ cách nào.
- Ngoài ra, một số hãng còn quy định chỉ cho phép tẩy các vết xước, bụi, crop... Các biện pháp chỉnh sửa hình ảnh, "gây cảm giác" khác nhau cho người xem trước và sau khi chỉnh sửa đu không được phép.

3. Phóng viên ảnh anh là ai?
Cũng giống như khái niệm ăn ảnh và không ăn ảnh trong chụp chân dung. Chỉ có khác ở đây là khái niệm dành cho người chụp chứ không phải dành cho người "bị" chụp . Có nghĩa đúng ra phải là "ăn phóng viên ảnh" và ngược lại .
Điu đó cũng có nghĩa là không phải ai cũng hợp với ngh này, một nhà nhiếp ảnh chuyên nghiệp toàn chụp ảnh nghệ thuật nhưng chưa chắc đã chụp giỏi được ABC, bởi giá trị thông tin đòi hỏi của ABC khác với ảnh nghệ thuật. Vậy điu gì đã được coi là tố chất của "Phóng viên viết bằng máy ảnh" ?

3.1. Nhạy cảm và thông cảm:
Tri thức có thể học, kỹ năng có thể rèn nhưng sự nhạy cảm, năng khiếu "phát hiện" nhưng điu mà nhiu người không thấy và tìm cách thểhiện quả hình ảnh độc đáo, thích hợp thì lại không phải ai cũng có và cũng giỏi được.
Và cũng không phải "đối tượng phản ánh" nào ai đã giỏi là giỏi tuốt, phóng viên ảnh chúng ta thường biết ở Việt nam là thời sự và thể thao... PVA phải nhạy cảm và thông cảm vì anh ta sẽ gặp nhiu tình huống khác nhau, nhiu tình huống bất ngờ, có thể bạn sẽ chụp những gì đau buồn xảy đến với "chủ đ" như tai nạn, chiến tranh, thảm hoạ tự nhiên, bênh tật... Bạn không thể chăm chăm chụp ảnh với khuân mặt lạnh tanh vô cảm hay trang phục, đầu tóc "đầu gấu" mất thiện cảm cho được, mà phải có thời gian thiết lập quan hệ và sự tin cậy. Michel DuCille phóng viên Washington Post cho rằng bất kỳ lối tiếp cận nào của phóng viên ảnh cũng phải "đối xử trân trọng với chủ đ và vứt bỏ mọi định kiến có sẵn. Phải có khả năng lường trước được bản chất con người và biết có mặt đúng nơi đúng lúc".

3.2. Dũng cảm, kiên nhẫn và không ngại gian khó:
Nếu không chúng ta là sao có nhưng ảnh trong những khúc cua nguy hiểm trong đua xe, những tình huống gay cấn, cảm động trong chiến tranh, những vụ hoả hoạn, những tình huống giải cứu con tin nghẹt thở, nhưng bức cận cảnh với bệnh nhân HIV, giao lưu và làm quen với những con nghiện, những vụ thảm hoạ thiên nhiên chưa từng có... và không thể kể hết những tình huống nguy hiểm.
Nhiu bức ảnh giá trị nó nằm trước hay sau sự kiện, chínhvì vậy kiễn nhẫn chờ đợi hay chịu khó quan sát cũng là điu kiện để không bỏ lỡ nhưng khoảnh khắc không có lần 2.
Ví như nhà báo Eric Draper đang làm nhiệm vụ ở Macedonia, chụp ảnh dân tị nạn Anbani ở cuộc chiến Kosovo, anh cố nán lại thật lâu trong lúc bị cảnh sát đuổi và đó cũng là thời điểm anh chụp được bức Người bố khóc trên đầu đứa con sau cửa kính ôtô chở người tỵ nạn. Nói như Schiappa "Cảnh sát ra lệnh cho anh phải dời vị trí đó, bạn tuân theo, nhưng hãy dời đến vị trí khác và tiếp tục chụp đến khi nào họ đuổi bạn lần nữa"" .
Và để kết thúc phần này tôi xin nhắc lại đại ý câu nói nổi tiếng của một phóng viên nổi tiếng, Ông có nói rằng: "Nếu bức ảnh của bạn chưa đẹp thì có nghĩa là bạn chưa đến gần". Và ông đã hy sinh trong chiến tranh khi tiếp cận gần "mục tiêu" hơn, tên của ông là CAPA.

3.3. Tư duy và óc hiếu kỳ:
duy ở đây được hiểu là tư duy hình ảnh, nó sẽ được hỗ trợ nếu định trước những chủ đ cụ thể và có cơ sở vững chắc. Nó đòi hỏi vốn kiến thức và tầm hiểu biết nhất định. Như bức ảnh nổi tiếng chụp tên đọc tài Pol Pot của David Longstreath năm 1998. Tác giả bức ảnh cho rằng: "Đây là tên độc tài cuối cùng của thế kỷ 20. Tôi không thể nói không trước cơ hội này và không thực hiện được thì tôi không quay lui." Bạn phải có tầm nhìn lịch sử để hiểu được tầm quan trọng của sự kiện này.
Nhưng phải nói một thực tế không chỉ riêng ở Việt nam (Việt nam thì hiển nhiên rồi? ) mà ở tầm quốc tế là hướng tư duy của PVA bị ảnh hưởng bởi các cuộc thi ảnh báo chí và những cuốn sách giới thiệu các bức ảnh nổi tiếng. Nó đã làm cho nhiu người cầm máy dễ dàng đi theo con đường mà những người khác đã vạch ra cho mình...
Còn óc hiếu kỳ hiển nhiên luôn nằm trong đầu mỗi PVA, anh không thể vô tư "bỏ quên đời" như một nhà thơ trong những lúc "bay bổng" được. Thật sai lầm nếu tiếp cận những cảnh tượng mới PVA lại tự hỏi mình "Chuyện này có gì mà hấp dẫn vậy?". Chính óc hiếu kỳ luôn luôn thôi thúc mỗi PVA theo đuổi thông tin.

4. Chụp ảnh báo chí có cần phong cách riêng?
Trước khi đi tiếp phần này tôi muốn để mở thành cho mỗi thành viên tự cho ý kiến của mình. Bởi sau đó mỗi người sẽ cảm nhận nhiu điu mà tôi cho là sẽ hay Ca sĩ, hoạ sĩ và cả những nhà nhiếp ảnh chụp ảnh Nghệ thuật... nhiu người nổi tiếng nhờ xây dựng cho mình một phong cách riêng.
Còn trong chụp ảnh báo chí thì sao: Có cần không? Và nếu có thì nó có ảnh hưởng đến ngh nghiệp không...?

5. Ảnh báo chí Việt Nam: Mặt bằng chung có  thấp
Ảnh báo chí VN gần đây thấy rõ sự chuyển biến v chất lượng, nhưng nhìn chung những bức ảnh xuất sắc quá ít trên mặt bằng chung còn yếu. Ảnh báo chí VN luôn thất bại trong Cuộc thi ảnh báo chí thế giới World Press Photo hàng năm.
Nghệ sĩ chụp ảnh báo chí
Nhìn vào danh sách những tác giả VN ghi cuối cuốn sách ảnh (Year Book) hàng năm của cuộc thi WPP mới thấy một sự lạ: Đến gần 90%
người dự thi là nghệ sĩ nhiếp ảnh, trong khi các tác giả nước ngoài đu là phóng viên ảnh từ các hãng thông tấn, các tờ báo, tạp chí lớn trên thế giới.
Nghệ sĩ nhiếp ảnh ở ta thì thường tham dự các cuộc thi salon của FIAP (Liên đoàn Nhiếp ảnh nghệ thuật quốc tế) và quen với việc can thiệp, xử lý vào ảnh. Vì tính chất FIAP là nghiệp dư, là chơi nên càng thi thố thủ pháp, càng dụng công sáng tạo thì có khi bức ảnh càng được đánh giá cao. Trong khi với các phóng viên ảnh, việc thể hiện quan điểm cá nhân còn gây tranh cãi.
Hal Buell - nguyên Trưởng ban ảnh của Hãng Thông tấn AP (Mỹ) - từng nói: "Nhà báo không phải và không nên trở thành nghệ sĩ bởi vì nghệ sĩ thường có quan điểm hay ít ra cũng cần có quan điểm. Còn nhà báo chỉ tường thuật lại những gì đã xảy ra".
Phóng viên ảnh thì sao?
Nếu nói ở ta không có sự kiện tầm cỡ để phóng viên tác nghiệp là sai! Phóng viên VN cũng không thiếu sự nhiệt tình trong ngh, nhưng kỹ năng tác nghiệp còn những hạn chế, chế độ bảo hiểm vào vùng nguy hiểm chưa có và nhuận ảnh thường chưa xứng đáng.
Nhiu phóng viên ảnh trong toà soạn vẫn mặc cảm so với phóng viên viết, hầu hết các báo chưa có biên tập ảnh riêng, và khả năng chọn ảnh của biên tập hay bất đồng với phóng viên. Một thực tế khác là nhiu phóng viên ảnh không chú ý đúng mức đến phần ghi chú cho ảnh, nên chú thích không đầy đủ...
Dạng phóng sự ảnh, ký sự ảnh đúng tính chất của nó- rất ít phóng viên ảnh VN làm tốt- mà hầu hết chỉ là những ảnh đơn lẻ ghép lại mà thiếu một móc xích kết nối chặt chẽ. Đó là chưa kể một số phóng viên ảnh vẫn quen dàn dựng, sắp đặt vì thiếu tính kiên nhẫn hoặc chậm chân.
V điểm này, Richard Voger- phóng viên một hãng thông tấn quốc tế tại VN - nói: "Tôi đã đi cùng và nhiu lần chứng kiến các phóng viên Châu Á dàn dựng hiện trường. Điu đó là không thể. Nếu bạn đến muộn bạn phải chấp nhận thất bại".

Sự nhầm lẫn v ảnh báo chí
Không ít người cho rằng: ảnh báo chí không cần tính nghệ thuật, quan trọng nhất là khoảnh khắc diễn ra sự kiện nóng và phóng viên ảnh bất chấp hiểm nguy ghi lại sự kiện đó thì làm sao còn có điu kiện chú ý tới tính mỹ thuật trong ảnh. Điu đó chỉ đúng một phần.
Tất nhiên, không phải ai cũng làm được như nhà nhiếp ảnh lừng danh James Natchwey (Mỹ) với những bức ảnh vừa có chất sống động của sự kiện, vừa giàu chất tạo hình.
Thực tế các tác phẩm đoạt giải WPP 2005 vừa qua là minh chứng rõ nét v sự kết hợp nhuần nhuyễn báo chí và nghệ thuật, tiêu biểu ở các thể loại ảnh thể thao, nghệ thuật...
Chúng ta hay nhắc đến "đào tạo"- khâu đầu vào để chỉ ra nguyên nhân chính của sự thua kém trong ảnh báo chí ở ta. Nhưng thực tế là còn nhiu nguyên nhân khác như đã nêu trên. Vì thế việc phóng viên Việt Thanh (Báo VN News) đoạt 1 trong 8 giải nhất ảnh báo chí do hai tờ báo Asia News Network và China Daily (Châu Á) tổ chức là một tin vui, nhưng cũng vì thế mà có người vội tung hô quá mức v một sự "đối trọng" với World Press Photo là chuyện buồn cười. Ngộ nhận v mình cũng là một điểm rất nên tránh.
Bình luận
Nhân tiện ta bàn luôn v "Ảnh báo chí" nhỉ
Chả là NTL có được khá nhiu dịp tham gia cùng và chứng kiến anh em phóng viên của TTXVN tác nghiệp. Đã gọi là "Thông tấn xã" thì chắc chắn là chuyên v tin tức rồi thế nhưng lúc xem lại ảnh của anh em đang trên báo mới thấy là người nhà mình thiếu được đào tạo nghiệp vụ thật. Có mấy vấn đ nổi cộm:

1. Nội dung:
Ảnh phóng sự rất cần nội dung và khả năng chuyển tải thông tin. Ảnh phóng sự của TTXVN còn rất yếu v khoản này, nó gần với ảnh "ghi chép" hơn là "báo chí". Có lẽ một trong những nguyên nhân chính là thiếu đào tạo chuyên nghiệp và kinh nghiệm. Để ý thì thấy ngay là phóng viên nhà mình đi "cover" hội nghị thường chỉ đơn giản xin "Press release", copy bài phát biểu...mà không thật sự tìm hiểu nội dung của nó. Chính vì thế mà họ thiếu khả năng tổng quát để "phóng sự" lại sự kiện bằng ảnh. Ảnh chụp rất nhiu đến mức không cần thiết.
2. Kỹ thuật thể hiện:
Đa phần anh em phóng viên nhà mình bị hạn chế bởi phương tiện kỹ thuật. Chụp ảnh phóng sự bằng dCam và BCam là phổ biến. Thêm vào đó là khả năng thao tác kỹ thuật vẫn còn hạn hẹp nên gặp rất nhiu trường hợp phóng viên nhà mình đứng xa hơn 10m và chụp ảnh với flash của BCam! Đấy là chưa nói tới cách thức thao tác khi chụp ảnh, di chuyển...để tránh trở thành vật cản không cần thiết cho hội nghị và truyn hình.
Nói tới ảnh báo chí không có nghĩa là đặt yếu tố "nghệ thuật" sang một bên. Ảnh báo chí nhất thiết phải đẹp v kỹ thuật và mang sức mạnh của nội dung. Giá trị thời sự là quan trọng nhất với ảnh báo chí. Tiếp theo đó là hiệu quả của ảnh báo chí đem lại trong xã hội thông tin. Xét v một khía cạnh nào đó ảnh báo chí gần với những ảnh nghệ thuật của khoảnh khắc. Tuy nhiên trong ảnh báo chí người ta không "xét nét" một cách quá đáng v "ý tưởng sáng tạo" mà quan tâm nhiu v kỹ năng thể hiện.
Một vài suy nghĩ cá nhân trao đổi cùng các bạn. Rất mong nhận được ý kiến phản hồi.
--------------------------------------




VI, XỬ LÝ ẢNH

VI-1, HIỂU THÊM VỀ CÁC THÔNG SỐ CỦA ẢNH

Một chủ đ rất thú vị mà mình đã định viết từ lâu nhưng cứ bị phân vân v thứ tự các bài viết giữa các chuyên mục mà thôi Hôm nay nhân tiện có câu hỏi của các bác bên topic "Chụp ảnh Hoa vClose up" nên mình nghĩ rằng thời điểm đã tới Bạn sử dụng bất kỳ một chiếc máy ảnh kỹ thuật số nào thì mọi thông tin v chụp ảnh đu được ghi kèm cùng với ảnh: những thông số cơ bản đến những thông số chi tiết mà bạn có thể xem trong tập tin EXIF ( http://www.exif.org/ ). Ta hãy khoan đi sâu hơn vào chi tiết vì việc đầu tiên là cần hiểu những thông số hiển thị trên màn hình LCD của máy ảnh nói gì đã. Ở đây NTL muốn lưu ý các bạn một điu là trong thế hệ máy dCam cấp độ nghiệp dư đơn giản nhất thì trên màn hình LCD của máy bạn không có khả năng đọc một số thông tin chi tiết vhình ảnh. Thế nhưng bạn hoàn toàn có thể đọc được các thông số này bằng các phần mm đi kèm theo máy tính. Chẳng hạn trong trường hợp con Canon G2 của bác Nguyễn Việt sẽ là "Canon FileViewer Utility", chỉ cần bạn chọn một tấm ảnh bất kỳ thì ở cột thông tin bên tay phải sẽ hiện đầy đủ các thông số. Hiện tại thì phần mm ACDsee 6x là một trong những tiện ích khá hoàn hảo cho các bạn chụp
ảnh bằng kỹ thuật số và có nhu cầu chỉnh sửa ảnh đơn giản để gửi qua internet. ACDsee 6x có thể đọc cả thông tin EXIF. Nếu bạn không muốn dùng phần mm này thì đã có một phần mm khác hoàn toàn "free" để đọc thông tin EXIF:
http://www.takenet.or.jp/~ryuuji/minisoft/exifread/english/

Đó là một vài ví dụ để bạn tham khảo. Ở Việt Nam hiện tại thì chỉ mất 8 000 đồng là  bạn đã có thể sở hữu phiên bản mới nhất của Photoshop rồi. Với những bạn không thật chuyên v đồ hoạ hay hình ảnh thì mình thấy dùng Photoshop Element đơn giản, dễ hiểu hơn mà kết quả vẫn đẹp như thường. Lợi thế của PS Element là nó rất nhẹ, không tốn nhiu bộ nhớ của máy tính.
Bây giờ ta sẽ đi vào phân tích các thông số mà máy ảnh hiện thị trên màn hình LCD nhé. Xin được lấy lại hình ảnh minh hoạ của bạn Nguyễn Việt:
Với mỗi loại máy ảnh khác nhau thì thông số hiển thị cũng có đôi phần khác nhau nhưng v căn bản là có thể hiểu và đoán được. Chẳng hạn như trong hiển thị ở trên ta đọc được các thông tin sau:
-        Độ nhạy ISO: 200
-        Chế độ chụp: tự động P (Program). Máy ảnh tự động hoàn toàn (hình chiếc máy ảnh và mũi tên)
-        Tốc độ chụp: 1/50
-        Khẩu độ ống kính: f/4
-        Hiệu chỉnh ánh sáng (hình vuông với ký hiệu dấu + và -): 0
-        Cân bằng trắng: chọn thời tiết có mây mù (hình đám mây)
-        Chế độ đo sáng: phức hợp
-        Chế độ chụp: Macro (với hình bông hoa)
-        Chất lượng ảnh: SuperFin (chữ S)
-        Kích thước ảnh: cỡ lớn nhất (chữ L)
-        Trên cùng bên phải là tên của hồ sơ lưu ảnh trên thẻ nhớ và tên ảnh...
Phần "rắc rối" nhất của hiển thị này có lẽ là độ thị phía bên tay phải. Thế nhưng nó lại hoàn toàn dễ hiểu. Trong "Histograms" là thông số hình hoạ v chất lượng của ảnh cũng như những vấn đ mà bạn cần quan tâm. Bạn hãy xem nguyên tắc sau đây:
- Nếu bạn thấy đồ thị có những đỉnh cao dồn v phía bên tay phải thì có nghĩa là tấm ảnh của bạn thiếu tông mầu sáng.
- Nếu bạn thấy những đỉnh cao này dồn v phía bên tay trái thì có nghĩa là tấm ảnh của bạn thiếu tông màu đậm.
- Nếu đồ thị của bạn có hình răng lược thì điu này có nghĩa là hoặc hình ảnh đã bị sửa chữa hoặc thông tin kỹ thuật số bị thiếu, không đủ cho ảnh chất lượng.
- Nếu bạn thấy đồ thì có hình một "quả đồi" nhỏ, tập trung vào giữa và có một khoảng cách nhỏ so với hai đầu của trục X thì NTL xin được chúc mừng bạn: tấm ảnh của bạn được phơi sáng chính xác.
Trên đây chỉ là những thông tin căn bản, điu quan trọng nhất là bạn phải tự chụp thử nghiệm và tự phân tích lấy hình ảnh của mình rồi rút ra kết luận.

Sau tất cả những gì mà chúng ta đã trao đổi thì có thể đi đến một kết luận rằng:
- Bạn có thể quên đi tính năng hiệu chỉnh "ánh sáng/độ tương phản" của PS khi muốn làm "retouche" ảnh. Cách làm này sẽ chỉ cho một hình ảnh xấu mà thôi.
- Để hiệu chỉnh ảnh v ánh sáng, độ tương phản hay nói chung là các "niveaux" hay "levels" của ảnh thì bạn nên dùng chức năng trong "Image/Réglage/Niveaux" (rất tiếc là mình chưa cài PS bản tiếng Anh)

Tuy nhiên việc hiệu chỉnh "Levels" còn phụ thuộc vào mục đích sử dụng của bạn: gửi ảnh lên web hay để làm ấn bản? Như bạn đã có thể thấy trong giao diện hiệu chỉnh "Levels" của PS có 5 hình tam giác nhỏ. Ma thuật của PS nằm cả trong đấy. Chỉ bằng việc xê dịch những giá trị này bạn sẽ làm thay đổi hoàn toàn hình ảnh của mình. Để có thể dễ hiểu hơn thì bạn hãy hình dung dải băng dưới cùng giống như là sự lựa chọn các loại giấy ảnh khác nhau trong kỹ thuật phim cổ điển. Không có bài giảng nào trên Web hay trong các sách dạy vnhiếp ảnh có thể nói chính xác v cách hiệu chỉnh này vì mỗi hình ảnh một khác. Chính bạn và chỉ có bạn là người duy nhất biết mình muốn gì? Bạn hãy thử nhé và kinh nghiệm thực hành cá nhân sẽ đem lại cho bạn những điu bất ngờ không nhỏ.
(Bạn có thể tham khảo thêm ở trang web khás thú vị này nhé: http://www.luminous-landscape.com/tutorials/understandingseries/
understanding-histograms.shtml )
----------------------------------------


VI-2, RAW vs JPEG
Có thể bạn đã từng sử dụng ít nhiu hoặc tham khảo trong sách báo và internet v cấu trúc ảnh thật đặc biệt này nhưng để đi đến một kết luận nên sử  dụng loại cấu trúc ảnh nào thì lại không đơn giản. Không giống như với JPEG và TIFF là hai cấu trúc ảnh được tiêu chuẩn hoá bằng chuẩn ISO trên thế giới, ảnh RAW lại có cấu trúc tuỳ thuộc theo nhà sản xuất như Canon, Nikon, Olympus...(với Canon là Raw, với Nikon là Nef, Olympus lại Raw...)
Vậy thế nào là RAW? Trong định nghĩa tiếng Anh đơn thuần của Encarta 2004 thì Raw nghĩa là "not changed or interpreted: in an original state and not yet subjected to correction or analysis" mà ta có thể hiểu theo tiếng Việt trong lĩnh vực nhiếp ảnh là loại cấu trúc ảnh nguyên gốc, chưa qua chỉnh sửa bất kỳ thông số nào. Vẫn có vẻ khó hiểu nhỉ? Bạn hãy hình dung như thế này nhé:

Ánh sáng đi tới "sensor" của máy ảnh -> Mạch cảm quang điện tử này chuyển hoá ánh sáng thành các tín hiệu điện tử -> Sau đó có hai nhánh rẽ chính v cấu trúc ảnh:

(1) -> Tín hiệu được ghi lại nguyên vẹn trong cấu trúc ảnh RAW.
(2) -> Tín hiệu đi qua hệ thống xử lý hình ảnh của máy ảnh rồi được lưu trữ dưới dạng JPEG hoặc TIFF. Đây là loại cấu trúc ảnh đã qua xử lý.
Với mỗi một loại cấu trúc ảnh ta có những thuận lợi và những bất tiện trong sử dụng khác nhau. NTL sẽ cùng bạn tìm hiểu dưới đây nhé.
Nếu bạn vẫn quen với khái niệm phim âm bản phim dương bản thì trong kỹ thuật số ta có thể chuyển chúng sang tương đương với cấu trúc ảnh RAW JPEG. Khi thao tác chụp ảnh với máy dSLR mình thường đặt ở cấu trúc ảnh JPEG L và Fine (cấu trúc ảnh ít bị biến dạng nhất) Sự tiện lợi của Jpeg là nó cho phép ta khai thác ngay lập tức tấm ảnh sau khi chụp (in ấn, gửi qua internet, trình bày bằng máy chiếu...) Chính vì lợi thế nài của nó mà hầu hết các máy dSLR đu có chức năng chụp ảnh kép: cho ra cùng lúc ảnh RAW+JPEG. Điu này cho thấy hai cấu trúc ảnh này không h phủ nhận nhau mà chúng cùng tồn tại song song với những mục đích và tiện dụng khác nhau.
Nói đơn thuần v kỹ thuật thì ảnh RAW được ghi lại với cấu trúc 12 bits cho từng mầu (thậm chí có thể lên tới 14 bits) điu này giúp cho bạn có thể ghi lại chính xác và chi tiết các vùng ánh sáng khác nhau cũng như trong bóng tối. Với RAW ta có thể hiệu chỉnh kết quả phơi sáng, độ tương phản, cân bằng mầu, tăng độ sắc nét của hình ảnh...mà không h làm thay đổi chất lượng ảnh bạn đầu. Làm việc với ảnh RAW cũng giống như khi bạn thao tác in ảnh từ phim âm bản trong buồng tối, tất cả đu là có thể (hoặc gần như thế) trong giới hạn của chất lượng ảnh gốc ban đầu.
Cấu trúc ảnh Jpeg thường chỉ có 8 bits/mầu. Tuy nhiên ta cũng có thể hiệu chỉnh ảnh Jpeg như đối với ảnh RAW, sự khác biệt nằm ở chỗ mỗi lần ta hiệu chỉnh một thông số thì chất lượng ảnh cũng bị suy giảm đi một chút, như thế ta sẽ nhanh chóng gặp phải giới hạn của những khả năng này. Điu đó giống như ta vẫn gặp phải với một tấm ảnh chụp bằng phim dương bản đo sáng sai. Như vậy để có thể đạt được chất lượng ảnh Jpeg cao nhất với khả năng của máy thì kết quả phơi sáng và mầu sắc phải được thực hiện hoàn hảo ngay từ đầu.
Không hẳn là dễ thực hiện trong thực tế. Với ảnh Jpeg còn lại một giải pháp an toàn là chụp ảnh với kỹ thuật "Bracketing" nhưng việc hiệu chỉnh ảnh chụp vẫn có chung giới hạn.
Thế nhưng ảnh RAW không phải là không có những bất tiện của nó. Đầu tiên là sự chậm trễ đến...não lòng của các dCam hay BCam sử dụng cấu trúc ảnh này (các dSLR có tốc độ làm việc với RAW khá nhanh, tuy nhiên cũng cần có loại Card Ultra II nữa!) Tiếp theo đó là thời gian cho việc chuyển giao ảnh giữa máy ảnh (hay đầu đọc card) với máy tính, ngay cả khi bạn dùng giao diện USB 2.0. NTL cảm thấy đáng tiếc khi kỹ thuật số chưa sử dụng phổ biến cổng giao diện "i-link" với tốc độ chuyển giao thông tin lớn hơn gấp nhiu lần. Chưa hết, nếu bạn không có một chiếc máy tính đủ mạnh (P IV 2,5 - 3 Ghz hoặc Centrino 1,7Ghz, Tối thiểu RAM 512 Mo hoặc lý tưởng là 1Mo, và một chiếc "video card" đủ nhanh...) thì việc chỉnh sửa các ảnh có cấu trúc RAW sẽ là một kỷ niệm...không bao giờ quên!
Quay lại với chuyện card dùng trong nhiếp ảnh, theo kinh nghiệm của riêng cá nhân mình thì NTL khuyên bạn nên sắm môt chiếc card kiểu Scandisk Ultra II hay Extreme, hoặc Lexar x40, x80. Với trọng lượng lớn hơn nhiu lần ảnh Jpeg thì ảnh RAW sẽ đòi hỏi thời gian ghi ảnh lên card cũng lâu hơn. Tất nhiên là các máy dSLR hiện hành đu dùng kỹ thuật bộ nhớ đệm để lưu ảnh khi chụp liên thanh nhưng số lượng ảnh RAW chụp liên thanh thường rất ít. Hy vọng là trong tương lại các ảnh RAW sẽ có trọng lượng nhẹ hơn hiện tại.

Với ảnh RAW bạn bắt buộc phải qua các thao tác "phòng tối kỹ thuật số" để chuyển nó sang cấu trúc có thể khai thác được. Hiện tại thì hầu hết các nhà chế tạo đu đã cho ra các phần mm chuyên dụng của mình để xử lý ảnh RAW. Canon dùng File Viewer, Nikon dùng Nikon Capture...Bên cạnh đó thì Photoshop CS đã có "plug-in" cho phép mở và chỉnh sửa ảnh RAW dù rằng các chức năng trong cửa sổ giao diện này còn khá nghèo nàn. Kinh nghiệm thực tế cho thấy bạn sẽ sử dụng cả hai loại phần mm này theo trật tự kiểu N.C + PS CS.

Để xử lý ảnh Raw bằng phần mm chuyên dụng bạn phải tính thời gian từ 3-5 phút cho mỗi ảnh tuỳ theo chất lượng ảnh gốc ban đầu.
Bạn cũng không nên quên căn chỉnh màn hình lại cho mầu sắc chuẩn trước khi tiến hành hiệu chỉnh ảnh nhé.
Trong lĩnh vực hiệu chỉnh ảnh này thì các cấu trúc Tiff và Jpeg có lợi thến hẳn vì ta có thể dùng "script" để xử lý ảnh theo lô. Thế nhưng lợi thế này lại không có được khả năng vi chỉnh đến từng chi tiết của cấu trúc RAW tuỳ theo các lỗi tự động của máy hay đo sáng chưa đúng. Với ảnh RAW thì các bước hiệu chỉnh được tiến hành đồng bộ một lần trước khi bạn chọn "save as..." còn với ảnh Jpeg và Tiff thì các bước này lại phải tuân theo trình tự: Levels, độ tương phản, mầu sắc và cuối cùng là độ sắc nét. Nhưng có một điểm chung cho cả hai cấu trúc này đó là bạn sẽ hiệu chỉnh chúng khi bạn thật sự có khả năng v kỹ thuật hay ngh nghiệp của bạn cần như vậy. Nếu không thì NTL khuyên bạn nên đặt các chế độ ngay trên máy ảnh của mình để có được các tấm ảnh Jpeg "raw" chất lượng cao mà không cần hiệu chỉnh thêm.
Cuối cùng là câu hỏi vu trữ ảnh đã chụp bằng kỹ thuật số. Bạn sẽ chỉ giữ ảnh RAW hay cả ảnh JPEG đã chỉnh sửa? NTL xin trả lời là cả hai! Lý do rất đơn giản: với ảnh RAW thì hàng chục năm sau này bạn có thể phóng lại một tấm ảnh với những thông số kỹ thuật khác biệt mà chất lượng không h thay đổi. Ảnh Jpeg có tiêu chuẩn quốc tế nên việc sử dụng nó chắc chắn sẽ dễ dàng hơn RAW (trừ khi Raw cũng sẽ có một ISO quốc tế) Với kích cớ ảnh lớn như thế thì việc lưu trữ ảnh lên DVD-R hay ổ cứng lưu động có dung lượng lớn là cần thiết.
Sau tất cả những vấn đ kỹ thuật và thực hành dường như rắc rối ấy thì một lời khuyên bổ ích và thực tế sẽ là cần thiết. Bạn dùng RAW hay JPEG trong những tình huống nào?

1. Cấu trúc ảnh RAW:
- Chụp ảnh nghệ thuật
- Ảnh kỹ thuật
- Ảnh trong điu kiện thời tiết không thuận lợi hay những tính huống đặc biêt khác.
- Ảnh có nhu cầu phóng to

2. Cấu trúc ảnh JPEG:
- Chụp ảnh lưu niệm, du lịch...
- Ảnh phục vụ cho công việc hàng ngày
- Ảnh dùng cho các mục đích trên internet.

Tất nhiên là bạn có thể thêm vào hay thay đổi danh sách trên đây tuỳ theo nhu cầu thực tế và hoàn cảnh cụ thể của bạn. NTL sẽ rất vui được trao đổi các kinh nghiệm thực tế với bạn để mở rộng hơn nữa khả năng hiểu biết và ứng dụng kỹ thuật số trong nhiếp ảnh của mình.
----------------------------------------


VI-3, KỸ THUẬT CHUYỂN ẢNH MÀU SANG ĐEN TRẮNG

Kỷ nguyên của kỹ thuật số đã mở ra cho chúng ta những chân trời mới và những khả năng dường như vô tận trong mọi lĩnh vực mà nhiếp ảnh chỉ là một phần nhỏ. Nếu như bạn vẫn hay nghe nói v ảnh đen trắng với một chút gì đó "huyn bí" và rất "nghệ thuật", một lĩnh vực dường như chỉ dành riêng cho giới "nhiếp ảnh PRO" thì bây giờ với kỹ thuật số bạn hoàn toàn có thể thoải mái chụp bằng ảnh mầu rồi sau đó chuyển chúng sang ảnh đen trắng. Nghe có vẻ kỹ thuật nhỉ? Nhưng điu này loại hoàn toàn không h phức tạp. Chúng mình cùng tìm hiểu nhé.

Để có một bức ảnh đen trắng bạn có nhiu sự lựa chọn:
1. Chụp ảnh bằng phim đen trắng B&W hay dùng chế độ chụp ảnh B&W của máy ảnh số.
2. Đ nghị Labo in ảnh cho bạn (từ phim âm bản, dương bản mầu hay ảnh kỹ thuật số mầu) thành ảnh đen trắng.
3. Sử dụng một phần mm chuyên dụng để chuyển ảnh mầu sang thành ảnh đen trắng (trong giới hạn bài viết này NTL sẽ dùng Photoshop CS, PS CS, như một phần mm tiêu chuẩn)
Chính giải pháp thứ 3 này là điu mà chúng ta cùng quan tâm. Điu đầu tiên là bạn cần có phần mm PS CS (mua tại cửa hàng Hồng Hải, phố Tạ Quang Bửu, khu Bách Khoa, HN) và căn chỉnh mầu cho màn chỉnh chuẩn bằng "Adobe Gamma" mà NTL đã nói đến cũng trong chuyên mục này( Adobe Gamma Recommended Settings). Việc làm này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng vì nó giúp bạn nhìn thấy chính xác mầu sắc trên màn hình máy tính, gần với mầu sắc trên màn hình ở Labo nhất, và sẽ không làm bạn ngỡ ngàng khi thấy chất lượng in ảnh ở Labo không giống như bạn vẫn nhìn thấy...ở nhà!
Có rất nhiu phương pháp để chuyển từ ảnh mầu sang ảnh đen trắng B&W với PS CS. NTL có thể tóm tắt quá trình này thành 2 bước:

1. Chuyển từ ảnh mầu sang ảnh B&W bằng PS CS hay bằng một "plug-in" chuyên dụng cho PS CS...
2. Hiệu chỉnh lại ảnh B&W với các tính năng sửa ảnh của PS CS.
-------------------------------------------
Trong bài viết này NTL xin được đi sâu vào phần thứ nhất. Các phương pháp "convert" - chuyển ảnh mầu sang ảnh đen trắng cho những kết quả khác nhau mà không phải ai cũng dễ dàng nhận thấy. Mỗi phương pháp có một xuất phát điểm khác nhau và cho một khả năng hiệu chỉnh ảnh B&W sau này cũng khác nhau. Vậy thì vấn đ nằm ở đâu?
Nếu như bạn vẫn hay dùng phương pháp đơn giản nhất của PS CS là "Grayscale" để chuyển ảnh mầu RVB (hay CMYK) sang B&W thì chắc chắn không ít lần bạn đã tự hỏi rằng tại sao kết quả hình ảnh lại "phẳng" (thiếu chiu sâu) đến như vậy? Câu trả lời nằm ngay trong tính chất của mầu sắc. Chắc bạn cũng đã biết rằng mỗi một mầu sắc thể hiện sự khác nhau qua "Hue" (hay Color), "Saturation" độ bão
hoà mầu và "Density" hay "lightness/darkness" - sáng/tối. Khi mỗi một yếu tố này thay đổi hay sự thay đổi của nó kết hợp với những yếu tố khác, sẽ tạo ra những khác biệt của hình ảnh. Điu này lý giải tại sao sau khi chuyển sang ảnh B&W bằng chức năng "Grayscale" thì bạn bị mất đi nhiu tông màu có độ chuyển gần giống nhau. Giải thích: nếu hai mầu chỉ khác biệt nhau v màu sắc còn có độ bão hoà mầu và "density" như nhau thì chúng sẽ giống hệt nhau trong B&W; nếu hai mầu khác biệt nhau bằng "saturation" và giống nhau ở "hue" và "density" thì trong B&W chúng cũng sẽ bị lẫn với nhau. Như thế tính chất duy nhất của mầu sắc còn có thể phân biệt được sau khi đã
hoán đổi sang B&W là "density". Nhưng chỉ có các cấp độ "degree of density" khác nhau là có thể phân biệt được sau khi hoán đổi mà thôi.
Ảnh mầu chụp bằng dSLR Nikon D70 + 18-70DX, chuyển sang B&W bằng PS CS ở chức năng "Channel Mixer".
Trước khi bước vào so sánh các phương pháp cụ thể thì NTL muốn thống nhất với bạn rằng không có một phương pháp chuyển đổi mầu sang B&W nào được coi là tốt nhất cho từng hình ảnh. Chính bạn sẽ là người phải tìm tòi, thử nghiệm và có được một giải pháp thích hợp nhất cho mục đích thể hiện của mình trong tấm ảnh.

Và dưới đây là các phương pháp chuyển căn bản. Ảnh mẫu chụp bằng dSLR Nikon D70 + zoom 18-70DX.
Phương pháp #1: Mode Conversion to Grayscale (Image/Mode/Grayscale)
Phương pháp này có cách làm đơn giản, cho một kết quả không tồi quá, với những người mới làm quen với PS CS nhưng nó nhanh chóng làm thất vọng những ai quen thuộc với PS CS. Sau khi chuyển đổi bạn sẽ có rất ít khả năng làm việc tiếp với ảnh B&W.

Phương pháp #2: Desaturation
(Image/Adjustments/Desaturate) hoặc (Image/Adjustments/Hue/Saturation) và đặt giá trị "Saturation = -100.
Phương pháp này tiện dụng nhưng PS CS có xu hướng chuyển tất cả các tông màu xuống "Midtone" - cấp độ trung bình và cũng không có khả năng hiệu chỉnh sau khi chuyển B&W.

Phương pháp #3: dùng Gradient Map
(Layer/New Adjustment Layer/Gradient Map) rồi chọn "Gray" ỏ (Image/Adjustments/Gradient Map) rồi chọn "Gradient used for Grayscale Mapping"
Phương pháp này cho kết quả tốt hơn hẳn hai phương pháp vừa nói đến ở trên vì nó giữ nguyên các tông mầu (có thể hiệu chỉnh tiếp sau này) mà chuyển sang B&W bằng cách áp dụng các "layers" như "Hue" và "Saturation".

Phương pháp #4: dùng Red, Green hoặc Blue Channel
Trong "Channels palette" ở phía bên phải màn hình, bạn có thể bấm vào từng kênh mầu R, G, B (giả sử như ta đang làm việc với ảnh RGB) để bật hay tắt chúng đi và sẽ có ảnh B&W. Mỗi một kênh mầu cho một tông màu xám "grayscale" khác nhau. Bạn có thể lựa chọn kênh mầu này bằng cách “copy” rồi “paste” nó vào trong một “file” mới rồi áp dụng “Split Channels” để giữ lại một kênh mầu duy nhất.
Kinh nghiệm cho thấy phần lớn các ảnh có kết quả đẹp ở kênh mầu "Red" và "Green". Kênh màu "Blue" thường bị nhiễu "noise" hơn hay "cứng" hơn. Bên cạnh đó thì kênh màu Đỏ cho hiệu quả giống như ta ta chụp phim B&W với kính lọc mầu đỏ - một phương pháp được ưa chuộng khi muốn tạo hiệu quả mạnh trong ảnh B&W.

Phương pháp #5: dùng Lightness Channel trong Lab Mode
(Image/Mode/Lab Color) rồi sau đó trong "Channels palette" ở phía bên phải màn hình bạn chỉ bật duy nhất kênh "Lightness" hoặc làm "copy" và paste" nó vào trong một "file" mới rồi thực hiện “Split Channel”. Phương pháp nay cho phép bạn sử dụng các giá trị "density" có giá trị duy nhất cho hình ảnh hiện tại.

Phương pháp #6: Channel Mixer
(Image/Adjustments/Channel mixer) sau đó bạn chọn "Monochrome"
Đây là phương pháp hiệu quả nhất, nó cho bạn một hình ảnh "trung thực" nhất so với ảnh mầu gốc đồng thời nó cũng cho ta khả năng vi chỉnh từng kênh mầu R, G, B.
Nguyên tắc căn bản: cho dù bạn muốn hiệu chỉnh từng kênh mầu R, G, B như thế nào đi chăng nữa thì tổng của cả 3 chỉ số này phải bằng 100%.
Kinh nghiệm thực tế cho thấy bạn có thể dùng các chỉ số như: Red=68, Green=24, Blue=8...

Dù bạn đã sử dụng phương pháp nào đi chăng nữa thì sau khi chuyển ảnh mầu sang B&W bạn vẫn cần phải hiệu chỉnh thêm "Density" và "Contrast".
Để có thể đạt được hình ảnh B&W đúng như bạn thấy trên màn hình thì trước khi tiến hành "convert" ảnh mầu bạn cần khai báo "Profile" cho ảnh: (Image/Mode/Assign Profile) và chọn “Don’t Color Manage This Document"

Chuyển sang ảnh B&W bằng PS CS
Để tiếp theo bài viết trên đây, NTL xin được giới thiệu thêm một phương pháp chuyển từ ảnh mầu sang ảnh đen trắng với PS CS do tạp
chí RP #156 giới thiệu. Theo RP thì đây là một trong những phương pháp tối ưu (PS CS là vô hạn) để có thể hiệu chỉnh các tông mầu
xám một cách tinh tế nhất từ ảnh mầu. Đồng thời nó cũng đơn giản và có thể dùng script để thao tác theo ý muốn.
Ảnh mầu chụp bẳng dSLR Nikon D70.

Bước 1: Tạo layer “Hue/Saturation” 1
Layer/New Adjustment Layer/Hue-Saturation
Trong Layer 1 này bạn hiệu chỉnh "Hue" theo ý muốn, các thông số chỉ là tạm thời vì ta có thể hiệu chỉnh thêm sau này.

Bước 2: Tạo layer “Hue/Saturation” 2
Layer/New Adjustment Layer/Hue-Saturation
Ta tạo thêm một Layer “Hue/Saturation” thứ 2 và trong layer này bạn gạt con chỏ của “Saturation” v tận cùng bên trái v vị trí 0, ảnh sẽ chuyển sang các tông mầu xám nhưng nó vẫn luôn là RGB.

Bước 3: Ta có 2 layer hiện thời nhưng chỉ có hiệu quả của layer trên cùng là thấy được, muốn cho cả 2 layer cùng có hiệu lực bạn hãy chọn trong hộp “ad hoc” phía dưới bảng Layer và chọn “Color”.

Bước 4: Bằng cách bấm kép vào biểu tượng của Layer 1 bạn có thể hiệu chỉnh lại các thông số “Hue” theo ý muốn bằng cách nhìn trực tiếp hiệu quả trên màn hình. Ưu điểm của cách hiệu chỉnh này là bạn có thể đạt được các tong xám theo ý muốn mà không h làm thay đổi ánh sáng chung của ảnh.

Bước 5: Hiệu chỉnh hình ảnh. Thường là chỉnh “Contrast” và “Levels”. Để có mầu đen thật sự sâu bạn có thể gạt con chỏ bên trái của thang « Levels » sang phía bên phải khoảng +2 chẳng hạn.

Bước 6 : Làm « phẳng » hình ảnh bằng « Option » trong bảng Layer, chọn “Flatten Image”.
Dĩ nhiên là trước thao tác này bạn có thể hiệu chỉnh thêm hình ảnh tại các vùng nhỏ riêng biệt để có được hiệu quả thật sự theo ý muốn.
Dưới đây là kết quả:

Chúc các bạn thành công!
---------------------------------------

VI-4, KỸ THUẬT XỬ LÝ ẢNH ĐEN TRẮNG TRONG BUỒNG TỐI

Trong thời gian qua xem ảnh của các bạn ở trên diễn đàn mình có 1 nhận xét là cac bạn hầu như chưa ai chú ý đến cách xử lý 1 bức ảnh đen trắng như thế nào sao cho hoàn chỉnh và hợp máet. Mọi người mới chỉ chú ý đến Sắc độ đậm nhạt, độ tương phản của nhân vật chính trong ảnh mà bỏ qua hết các thứ ở xung quanh nó.
Tôi xin đuợc giới thiệu với mọi ngưòi 1 số phương pháp xử lý ảnh đen trắng theo phương pháp truyn thống ( làm thủ công ) để qua đó mọi người có thể dùng Photoshop xử lý cho những bức ảnh của mình được hoàn chỉnh hơn.
Đây là tài liệu tôi trích ra trong quyển " Kỹ thuật phóng ảnh Đen Trắng " của 1 nhóm tác giả người Đức. Đây là quyển sách học kỹ thuật phóng ảnh ĐT của tôi.

Trong tài liệu này mỗi ảnh gồm có 3 phần:
Ảnh 1 : là ảnh nguyên bản, chưa có diu chỉnh.
Ảnh 2 : Là phần các vùng sáng tối trong ảnh cần diu chỉnh ( + làm tăng thêm độ đậm của vùng chọn ) ( - làm giảm đi độ đậm của vùng chọn ).
Thời gian lộ sáng ảnh đen trắng được tính bằng giây. ( Giống như thời gian lộ sáng của phim )
Ví dụ như : Thời gian lộ sáng của bức ảnh đầu tiên là 9 giây được chia làm 3 lần, mỗi lần lộ sáng là 3 giây với kính lọc có độ tương phản là 4. ( Độ tương phản này chỉ dùng trong phóng ảnh đên trắng theo phuơng pháp thủ công. Nó dao đông từ 00 đến 5. Tuỳ theo từng ảnh.
Và thời gian lộ sáng của ảnh cũng vậy. Mỗi một ảnh đu có 1 đáp số riêng. Không cái nào giống cái nào. Ví dụ như bức ảnh này là 9 giây. Sau khi lộ sáng cơ bản, người ta mới bắt đầu phân tích ảnh xem cần điu chỉnh những vùng nào trong ảnh. Làm cho nó sáng lên hoạc làm cho nó đậm hơn.
- Nếu muốn làm cho nó đậm hơn thì sau khi lộ sáng cơ bản người ta lộ sáng tiếp vùng cần làm đậm lên( thêm thời gian lộ sáng ) bằng phương pháp che chắn. Dùng tay hoặc bìa cứng. Chỉ lộ sáng những vùng ảnh cần điu chỉnh, còn những chỗ khác thì che lại không cho lộ sáng tiếp.
- Nếu muốn làm cho vùng được chọn sáng ra thì trong thời gian lộ sáng cơ bản ta đã phải xử lý rồi. Có nghĩa la trong thời gian lộ sáng đầu tiên đồng thời với việc giấy ảnh đang bắt sáng ta phải dùng miếng bìa cứng cắt theo hình vùng ta cần che để che vào những vùng càm làm sáng ra. Khi đó vùng dược chọn sẽ sáng hơn so với không che chắn ( Giấy ảnh bắt được ánh sáng ít hơn ).
Sau khi xử lý cách vùng sáng tối trong ảnh hoàn chỉnh thì điu cuối cùng cẩn làm là lộ sáng thêm 4 góc của ảnh đậm hơn một chút để khi xem ảnh mát người xem không bị chạy ra khỏi ngoài ảnh thông qua các vùng sang ở 4 góc ảnh.
Đây là kỹ thuật phóng ảnh truyn thống mình muốn các bạn tham khảo để qua đó có thể áp dụng các chức năng công cụ của Photoshop để diu chỉnh các bức ảnh Đên trắng ( số ) của mình.
Tôi cũng đã dung PS làm thử 1 vài lần như vậy và thấy hiệu quả của nó cũng tương đối tốt.
Điu quan trọng nhất tôi muốn nói với các bạn êaf các bạn phải phân tích ra được trong 1 bức ảnh nhũng vùng nào càn làm sáng lên va nhũng vùng nào cần làm đậm đi.
Tôi có đưa len 1 số ảnh mẫu để các bạn tham khảo.

Bạn hãy làm thử và xin chúc bạn thành công.























Theo em học lỏm được thì ở ảnh B&W bên cạnh hình khối, đường nét, yếu tố xám-gray là rất quan trọng. Có người thích tương phản cao trong ảnh đen trắng thường giảm tông xám của bức ảnh và nhấn mạnh sự khác biệt giữa đen và trắng. Làm chúng có độ tương phản cao chủ yếu do việc sử dụng nguồn ánh sáng mạnh. Bên cạnh đó thì nhiu người lại khóai chụp ảnh đen trắng có độ tương phản thấp. Ảnh đen trắng có độ tương phản thấp thường nhấn mạnh tông màu xám hơn là việc tập trung vào sự tương phản. Tuy vậy trong ảnh đen trắng có độ tương phản thấp người chụp nên có điểm nhấn sẫm để tạo điểm nhấn cho bức ảnh.
--------------------------------------------

VI-5, TỐI ƯU ẢNH TRƯỚC KHI UP LÊN SITE
Tôi muốn được trao đổi một chút v việc tối ưu ảnh với các bạn. Để bức ảnh vẫn có được chất lượng xem tốt, nhưng kích thước của file lại nhỏ một cách hợp lý, ta nên sử dụng lệnh " Save for web " trong menu file cuả Photshop

Các bước thực hiện như sau :
1- Xử lí bức ảnh một cách thông thường dể có được chất lượng như mong muốn , Dùng lệnh Save As để lưu giữ hoặc in ảnh...

2- thực hiện tối ưu
bước 1 : Chọn Lệnh Image size trong menu Image( hình minh họa 1)
bước 2 : Khai báo lại kích thước của ảnh trong tùy chọn pixel dimesons thông thường kích thước các trang web được thiết kế theo nguyên tắc % của màn hình hoặc theo kích thước tương ứng với màn hình
.Nên nếu ảnh của bạn có kích thước ( theo đơn vị Pixel ) quá lớn khi gửi lên trang, người xem sẽ không nhìn thấy toàn bộ hình ảnh cuả bạn. Muốn xem hết người ta phải cuộn màn hình theo 2 chiu ngang và thẳng đứng. Vì vậy tuỳ theo ảnh đứng hoặc ngang ta chỉ cần chọn kích thước theo chiu ngang ví dụ ảnh đứng chọn Width : 450 px hoặc 680px với ảnh ngang.( hình minh họa 2 ) cuộn màn hình theo 2 chiu ngang và thẳng đứng. Vì vậy tuỳ theo ảnh đứng hoặc ngang ta chỉ cần chọn kích thước theo chiu ngang ví dụ ảnh đứng chọn Width : 450 px hoặc 680px với ảnh ngang.( hình minh họa 2 )
bước 3: chọn lệnh "save for Web" me nu File ( hình minh họa 3,4 ) sau đó tiếp tục chọn mode ảnh thường là mode jpg. và chọn mức độ tối ưu : Low, Medium, high, Very high, maximum. bạn có thể thấy ngay kích thước file đã được tối ưu đồng thòi nhìn thấy chất lượng bức ảnh đó. Bạn có thể kiểm tra chất lượng bức ảnh ngay trên trình duyệt bằng cách bấm vào biểu tượng của trình duyệt ở phía đáy của bức ảnh tối ưu ( chế độ nhìn 2 up) (hình minh họa5). Trong trường hợp không nhìn thấy bt trình duyệt , hãy bấm vào nút mũi tên bên cạnh và chọn biểu tượng cuả trình duyệt trong progam. Có thể lựa chọn lại các chế độ tối ưu ảnh để bức ảnh dã có chất lượng nhin tốt nhất và kích thước file nhỏ nhất. kết thúc là lệnh save.
Để khỏi mất exif, nên dùng lệnh save as.... hơn là lệnh save for web.
Kích thước tốt nhất để đưa lên gallery là 800x600
Còn đưa lên forum tốt nhất là 640x480.
--------------------------------------------------------

VI-6, LÀM BORDER ẢNH BẰNG PHOTOSHOP VÀ VẤN ĐỀ GIỮ EXIF
Muốn giữ EXIF khi dùng PS thì phải thao tác trên file gốc thôi. Muốn an toàn nếu nghịch PS có sai sót thì các Bác nên sao lưu file đó trước khi Edit.
bvh2228 wrote:
Nếu không muốn mất bác nên dùng PS để làm frame. Cái này bác nào biết chỉ giúp, em cũng chưa biết làm

Cách làm Border cơ bản nhất

1. Vào PS mở file ảnh cần làm border.
2. Vào Menu Image/ Canvas size... (phím tắt Alt + Crtl + C)
Click dấu kiểm vào Relative (khoanh đỏ)
Chọn độ mở rộng và chọn màu cho Border (khoanh vàng)
Thế là cơ bản đã có Border.
3. Muốn thêm một chút vin nhỏ nữa thì chọn công cụ Select như hình dưới (VD đã chọn Canvas size... rộng và cao thêm 1 inch màu Bo đen ) 
sẽ như thế này

4. Vào menu Edit/Strock... Đin các thông số: độ dày của vin, màu sắc vin, vị trí vin so với vùng lựa chọn

5. Chọn vin rộng 2px, màu trắng. Thêm text vào Kết quả nó ra thế này

PS: việc lựa chọn vùng để làm vin ở Bước 3, có cách này sẽ làm chính xác hơn:
Chọn tất cả : Ctrl + A vào tiếp Menu select / Transform selection và nhập % vào 2 ô Rộng và cao
-----------------------------------

VI-7, KHẮC PHỤC OUT NÉT
Ngày đẹp trời nào đó , bạn lang thang với máy ảnh số "offline " ngòai phố . Chợt bắt gặp một chủ đ hay hay và vội vàng đưa máy lên chụp . Thế nhưng , do vội vã bạn không kịp canh nét cho kỹ và tác phẫm của bạn bị "out ,out "nét . Bỏ thì tiếc , giữ lại thì cũng tiếc và càng trách mình hơn vì sao hỏng chịu lấy nét cho kỹ . Cũng may là còn anh chàng photoshop . Nhưng xài cái gì đây trong PS để cứu lấy tác phẫm của mình ? Tăng Contrast lên ư ? E rằng không đặng . Tăng Unsharp Mark luôn . Thì cũng có thể nhưng hình lại không đạt cho lắm .
Thôi thì bạn hãy làm thử theo tui vậy :
1. Chuyển đổi chế độ hình RGB qua Lab Color .
2. Vào palette Channels , chọn lớp Lightness . Khi đó hình ảnh sẽ chuyển qua trắng đen . Bạn đừng lo .
3. Chọn filter unsharp mask . Chỉnh các thông số cho đến khi nhìn thấy rỏ hơn hình gốc
4. Sau đó chỉ chuyển hình trở lại qua chế độ RGB .
Cái hay của thủ thuật này là khi bạn chỉnh Unsharp mark , sẽ không làm nổi bật các chi tiết trong hình hoặc nổi các quầng mầu . Và mời bạn cứ thử xem .
-------------------------------------------------


VI-8, CỨU ẢNH BỊ XÓA TRÊN THẺ NHỚ
Với thời đại của kỹ thuật số thì bên cạnh những tiện nghi không thể nào phủ nhận, thậm chí bản thân chúng ta còn vô tình lệ thuộc vào chúng nữa, thì lại có những vấn đ mới phát sinh mà ta cần có kinh nghiệm và phương pháp để xử lý. NTL muốn đ cập ở đây điu mà chắc không ít bạn đã gặp phải: xoá nhầm ảnh trong thẻ nhớ! Không có gì quá là đặc biệt cả, trong thời của máy ảnh chụp phim ta vẫn gặp không ít các bác phó nháy Pro bị tai nạn mất ảnh do mở nhầm lưng máy ảnh hay đem tráng một cuộn phim còn mới nguyên... Với phim, như thế là chấm hết nhưng với một chiếc thẻ nhớ thì ta hoàn toàn có thể phục hồi lại những tấm ảnh đã mất.
Trước khi đi vào chi tiết cụ thể NTL xin được liệt kê một số tai nạn khá phổ biến với người dùng máy ảnh kỹ thuật số:
- Xoá nhầm ảnh (thường do thao tác xoá ảnh cũ quá nhanh)
- Làm "format" thẻ nhớ nhưng không kiểm tra lại nội dung ảnh đã có trong thẻ
- Rút thẻ nhớ ra khỏi máy ảnh trong quá trình máy đang thao tác ghi ảnh lên thẻ nhớ
- Lỗi do đầu đọc thẻ nhớ và đường truyn USB...
Như thế giải pháp cho bạn để tránh những trường hợp dở khóc dở cười này là:
- Ưu tiên dùng các loại thẻ nhớ có thương hiệu uy tín, tránh dùng các loại "no-name"
- Trong trường hợp bạn vừa tiến hành thao tác xoá toàn bộ thẻ nhớ và phát hiện ra là mình làm nhầm thì nên tắt ngay máy ảnh, rút thẻ nhớ ra khỏi máy ngay lập tức.
- Sau khi chuyển ảnh từ thẻ nhớ vào máy tính bạn nên xem qua một lượt các ảnh này trước khi xoá toàn bộ thẻ nhớ
- Bạn nên xoá thẻ nhớ đu đặn để tránh tình trạng bị phân mảng thông tin gây khó khăn cho việc tìm kiếm sau này. Tốt nhất là nên làm "format" sau khi đã chuyển ảnh vào máy tính.
- Bạn nên chú ý tới thời gian ghi ảnh lên thẻ nhớ. Quan sát cẩn trọng tín hiệu đèn nhấp nháy và chú ý tới cả năng lượng của pin nữa
- Trong trường hợp thẻ nhớ bị hỏng do tác động cơ học thì bạn hoàn toàn có thể lấy lại các hình ảnh của mình thông qua một dịch vụ chuyên nghiệp.
Sau đây là những phần mm được nhiu người biết đến và sử dụng để phục hồi ảnh:

1. Smart Recovery (miễn phí)
Bạn có thể tải xuống từ đây: www.pcinspector.de
2. Lexar Image Rescue 2 (35€)
Phần mm này được tặng km theo một thẻ nhớ 512Mo Pro
3. Rescue Pro (Sandisk) (35€)
Phần mm này được tặng km theo một thẻ nhớ 512Mo Pro
4. Xzeos Media Recover
Báo giá 35€. Site: www.mediarecover.fr
5. Flash File Recovery (40€)
Phần mm này chỉ bán trên mạng. Site: www.panterasoft.som
6. Ontrack EasyRecovery (230€)
Đây là phần mm được thiết kế để tìm và khôi phục dữ liệu trên ổ cứng của máy tính và sau đó nó được phát triển cho các loại thiết bị nhớ bên ngoài.
--------------------------------

VI-9, IN ẢNH TẠI LABS
Mình nghĩ rằng đây là câu hỏi khá phổ thông của tất cả những ai đang sử dụng máy ảnh kỹ thuật số. Trong khi mà kỹ thuật in ảnh ngày càng hoàn thiện và phát triển hơn thì câu hỏi này đôi khi lại rất khó trả lời. Tại sao ở Labo này ảnh rửa đẹp mà chỗ khác lại không đẹp?
Và giá cả đôi khi chênh lệch khá nhiu. Không cần phải là "đại lý" của các Labo mới nhận ra sự khác biệt v chất lượng và giá cả. Nếu như ở HN giá cho một tấm ảnh 10x15 là 3000 đồng thì trong thành phố HCM giá này lại chỉ có 2000 đồng! Ở HN nếu bạn rửa ảnh với số lượng nhiu thì thường dễ dàng mặc cả xuống còn 2800 đồng/ảnh (tối đa là 2600 đồng/ảnh) còn trong TP HCM sẽ vào khoảng 1800 đồng/ảnh (có nơi nhận làm 1500 đồng/ảnh).
Khái niệm MiniLab đã trở thành quen thuộc với người Việt nam từ hơn 10 năm nay nhưng ít ai thật sự biết hệ thống máy in ảnh phức tạp này hoạt động như thế nào? Có 2 loại máy MiniLab khác nhau:

1. MiniLab kỹ thuật "analogique" kiểu cổ điển
2. MiniLab kỹ thuật số
Nếu như MiniLab "analogique" in ảnh đúng theo phương pháp truyn thống nhất nghĩa là rọi sáng qua phim lên giấy ảnh thì MiniLab kỹ thuật số lại làm "scan" ngay cả với các phim âm bản, xử lý tự động bằng máy tính rồi in ra.
Để in ảnh trên giấy các MiniLab kỹ thuật số sử dụng một loại máy in chuyên dụng siêu tốc có thể thao tác in từ 70-200m/giờ. Như thế để đảm bảo độ chính xác cao của lượng phơi sáng người ta phải sử dụng đến một nguồn sáng tia la-de siêu tốc mà hệ thống kỹ thuật của nó bao gồm rất nhiu tấm gương siêu nhỏ. Vì thời gian để in một tấm ảnh là rất ngắn nên các nhà sản xuất cũng đã đưa ra một loại giấy ảnh đặc biệt, vẫn dựa trên cấu tạo của giấy ảnh truyn thống, có khả năng nhạy sáng cao, chuyển tông màu tinh tế để đáp ứng với kỹ thuật la-de.
Đa phần ở Việt nam hiện tại người ta vẫn sử dụng giấy ảnh loại bình thường để in ảnh kỹ thuật số do đó chất lượng ảnh không thật sự cao.
Nếu bạn mang cuộn phim âm bản của mình đến một dLab thì nên nhớ rằng những tấm hình bạn nhận được 1h sau đó không h được "nhìn" thấy giấy ảnh. Đơn giản bởi vì cuộn phim âm bản của bạn đã được làm "scan" bằng một máy chuyên dụng. Ví dụ như loại máy Agfa dScan 20 có thể "scan" 20 000 ảnh/giờ ở độ phân giải 2048x3072 (16bit); Sau đó thông tin v hình ảnh của bạn sẽ được xử lý bằng máy tính v mầu sắc, độ tương phản...và cả hiệu chỉnh những lỗi phơi sáng nữa. Ở đây ta nhận ra sự khác biệt lớn giữa hai thế hệ MiniLab. Nếu như loại MiniLab cổ điển chỉ có thể hiệu chỉnh toàn phần một tấm hình thì DLab lại có thể chỉnh sửa theo vùng và loại bỏ những phần ánh sáng sai. Như thế người được lợi nhất chính là bạn!
Và bây giờ sẽ là sự khéo léo của bạn, mỗi khi vào một Labo để rửa ảnh, sẽ giúp bạn biết mình đang giao phó những kỷ niệm quý giá của mình cho ai? Dưới đây là danh sách các dMiniLab xếp hạng từ chất lượng cao xuống thấp, nhưng dĩ nhiên chúng đu là những MiniLab tốt cả.

1. Agfa d-lab.2
2. Fuji Frontier 340
3. Kis DKS 1500
4. KOdak 29 DLS
5. Konica R1 Super
6. Noritsu QSS-2901
------------------------------

VII, MẸO VẶT VÀ HỎI ĐÁP

VII-1, KINH NGHIỆM CHO NGƯỜI MỚI BẮT ĐẦU
Không phải lúc nào trên những chặng đường bất chợt bạn du có người quen đi cùng để…chụp ảnh cho nhau. Và cũng không phải lúc nào bạn chụp ảnh cảnh đẹp nhưng chụp người với cảnh cũng đẹp. Vấn đ là đơn giản so với những người nhiu kinh nghiệm nhưng lại là khó khăn với những bạn ít chụp ảnh. Không ít lần bạn đã kêu than vì nhân vật trong ảnh sai nét, bị tối mặt…hay khi thể hiện rõ ràng nhân vật thì cảnh lại tối thui hoặc…trắng xóa! Làm thế nào bây giờ ? Không có gì khó cả, NTL xin được tìm hiểu và giải quyết vấn đ cùng bạn và vẫn chỉ với chiếc dCam.

1. Điu quan trọng đầu tiên là quan sát ánh sáng
Kỹ thuật nhiếp ảnh có những giới hạn của nó và không phải lúc nào bạn cũng có thể đạt được đầy đủ các chi tiết trong bóng tối và vùng ánh sáng cao. Chính vì thế nên khi đứng trước một cảnh đẹp, một công trình nổi tiếng…bạn muốn có hình kỷ niệm với chúng thì việc quan sát hướng chiếu sáng là rất quan trọng. Bạn nên tránh chụp những cảnh ngược sáng hay đơn giản hơn là người được chụp đứng trong vùng bóng râm còn phông nn lại sáng rực rỡ. Khi mặt trời ở ngay sau lưng nhân vật hay ở chếch 45° phái sau thì bạn khó có thể chụp ảnh đẹp với dCam. Giải pháp : thay đổi góc nhìn, đổi vị trí của nhân vật hay chụp cận cảnh theo kiểu chân dung và dùng thêm flash « Fill-in » (đồng nghĩa với việc phong cảnh sẽ bị hẹp lại). Bạn cũng nên tránh ánh sáng thẳng trên đỉnh đầu vì nó sẽ làm tối các hốc mắt.
Chụp ảnh người với phong cảnh thì nên tránh đội mũ lưỡi trai vì nó sẽ làm mặt bị tối. Hướng sáng đẹp là chếch 45° theo nhiu ngang và chiu thẳng đứng v phía trước mặt. NTL thích thứ ánh sáng dịu hắt lên từ mặt sân hay một bức tường nào đó gần với nhân vật. Như thế nếu bạn đi du lịch vào một ngày trời râm mát thì lại chính là điu kiện lý tưởng để chụp được nhiu ảnh đẹp đấy.

2. Điu quan trọng thứ hai là đo sáng
Máy dCam có những hạn chế không thể vượt qua của nó (không thể thao tác theo ý muốn, tầm đèn flash yếu…) nhưng lại rất « thông minh » trong việc ghi lại các chi tiết trong vùng ánh sáng yếu. Như thế nguyên tắc đo sáng chung của dCam là ưu tiên các vùng ánh sáng cao. Nếu ta gọi vùng ánh sáng kém nhất là « Tối », ánh sáng đủ cho nhân vật là « Trung bình », vùng có ánh sáng cao hơn là « Sáng » và điểm sáng nhất là « Cực sáng » thì với máy ảnh dCam bạn nên đo sáng vào vùng « Sáng ». Để có thể ghi lại được chi tiết phong cảnh cũng như nhân vật thì ánh sáng phải cân bằng giữa chủ thể và phông, hay độ chênh lệch không vượt quá 2 khẩu độ ống kính với ảnh
mầu. Làm sao để biết được điu ấy ? rất đơn giản : bạn chỉ việc chọn chế độ chụp ở Av hay Tv (đa phần các máy dCam hiện hành đu cho phép làm việc này), chẳng hạn ta chọn Av và đặt khẩu độ ở f/5,6, rồi tiến hành đo sáng trên khuôn mặt của nhân vật bằng chế độ « Spot » (chẳng hạn kết quả đạt được là 1/125 với ISO 100) sau đó đo sáng vào một vài chi tiết quan trọng ở phông (chẳng hạn kết quả đạt được là 1/250 ở ISO 100, 1/500…). Dựa trên những thông số này bạn có thể biết được là mình có cần dùng thêm flash hay hiệu chỉnh kết quả đo sáng hay không ? Nguyên tắc căn bản của việc Hiệu chỉnh kết quả đo sáng (Exposure Compensation) như sau :

- Khi người sáng hơn phông thì –Ev
- Khi người tối hơn phông thì +Ev
Nếu máy ảnh của bạn không cho phép thao tác như NTL đã trình bày ở trên thì bạn hoàn toàn có thể chụp hai kiểu ảnh : một với đo sáng vào nhân vật và một với đo sáng vào phông rồi so sánh kết quả trên màn hình LCD. Lợi thế của máy ảnh số là ở chỗ này.
Nếu bạn thấy đồ thị « Histograms » dồn v bên trái thì có nghĩa là ảnh của bạn bị tối, đồ thị dồn v tận cùng bên phải nghĩa là ảnh của bạn bị thừa sáng. Một hình ảnh có ánh sáng đúng sẽ có đồ thị hình một quả đồi nhỏ ở chính giữa, có một chút khoảng cách với hai đầu của trục X.
Đồ thị này cang cao theo trục Y thì có nghĩa là tấm ảnh của bạn càng có nhiu chi tiết.

3. Điu quan trọng thứ ba là độ nét sâu
Lẽ dĩ nhiên là bạn muốn có một tấm ảnh nét cả nhân vật và phong cảnh. Điu này rất dễ thực hiện khi chụp với dCam vì các máy này có độ nét sâu rất lớn (do tiêu cự của ống kính rất ngắn) Thông thường bạn sẽ canh nét vào nhân vật, lý tưởng nhất là chọn điểm canh nét trên khuôn mặt, chỗ nằm giữa hai mắt (nếu cự ly chụp đủ gần để quan sát) như thế để đạt được độ nét sâu từ nhân vật cho tới tận vô cùng bạn phải chọn khẩu độ ống kính nhỏ nhất, với máy dCam là f/8. Tuy nhiên trong đa số các trường hợp khi khoảng cách giữa người chụp và nhân vật đủ xa thì chỉ với f/5,6 bạn đã có thể làm được điu này rồi. Thế nhưng máy dCam lại khóa luôn cả điểm canh nét lẫn kết quả đo sáng đồng thời cùng một lúc và bạn lại muốn chọn một kết quả đo sáng trên một vùng ánh sáng khác. Làm thế nào đây ? Cũng rất dơn giản, với dCam bạn vẫn có thể sử dụng khả năng của « Hyper-focal » tức là chọn một điểm canh nét (không nằm trên nhân vật) mà từ đó đạt được độ nét sâu lớn nhất. Thực nghiệm với máy dCam cho thấy bạn hoàn toàn có thể chọn điểm canh nét vào 1/3 chiu sâu của ảnh với khẩu độ ống kính tối thiểu là f/5,6. Sau khi chụp bạn nên dùng chức năng zoom của màn hình LCD để kiểm tra xem nhân vật có nét hay không ?

4. Điu thứ tư là đèn Flash "Fill-in"
Tất cả các đèn flash gắn sẵn trên máy dCam cho chỉ số GN rất nhỏ. Cự ly chụp hiệu quả ở vị trí ống kính rộng nhất thường ở 3,5m và ở vị trí ống kính tele là 2,5m. Khi bạn khép sâu khẩu độ ống kính để lấy độ nét sâu thì cự ly chụp của đèn sẽ bị giảm đi rất nhiu. Chẳng hạn với GN 11 thì ở f/8 bạn sẽ chụp được ở khoảng cách 11/8 = 1,375m mà thôi. Hiệu quả của flash là xóa đi các bóng đổ xấu hoặc cân bằng nhân vật với ánh sáng ở phông. Với dCam thì phương pháp đơn giản mà hiệu quả nhất là đo sáng vào một điểm trên mặt đất của phông rồi dùng flash để chiếu sang cho người. NTL hay dùng ISO 50 với flash “fill-in” và trong trường hợp phông quá sáng thì bạn có thể -1 Ev hoặc -2 Ev. Vào những lúc trời sẩm tối thì bạn nên dùng thêm chân máy để chụp flash với tốc độ chậm. Chế độ này được biểu hiện bằng hình người với ngôi sao trên máy của bạn. Với những bạn nào có nhiu kinh nghiệm hơn thì có thể chọn tốc độ ở chế độ Tv. Bạn cần lưu ý là ngay cả khi flash đã lóe lên rồi thì vẫn cần tiếp tục giữ nguyên vị trí để tránh hiện tượng bóng nhòe. Phương pháp này cho phép bạn tái tạo lại sinh động không khí ban đêm và bầu trời sẽ rất xanh đồng thời người đủ sáng. Chụp flash buổi tối bạn có thể chọn ISO 200.

5. Một vài điu cần lưu ý :
- Bạn nên bỏ chế độ Auto ISO vì ở chế độ này máy ảnh sẽ tự đặt độ nhạy ISO theo hoàn cảnh và bạn sẽ không điu khiển được máy theo ý muốn.
- Bạn nên bỏ chế độ tự động chọn điểm canh nét vì máy ảnh sẽ không canh nét đúng như ý bạn.
- Bạn nên bỏ chế độ Auto Flash nhưng cần luôn quan sát các thông số v tốc độ, nếu tốc độ thấp hơn 1/60 giây thì bạn nên dùng chân máy hay flash.
- Bạn nên bỏ chế độ Auto WB vì máy ảnh sẽ đưa tất cả các mầu v giá trị trung bình, không thật đẹp.Như thế thì tùy theo diu kiện ánh sang thực tế mà bạn chọn WB.
Bạn đang sở hữu một chiếc dCam hay BCam…điu ấy không quá quan trọng tới chất lượng của ảnh, kỹ thuật tự động chỉ giải quyết được một phần nào các đòi hỏi của bạn mà thôi, cho dù bạn không hay chụp ảnh nhưng dăm phút tư duy trước khi bấm máy sẽ làm cho mọi người trầm trồ với những tấm ảnh du lịch của bạn đấy.

Chúc có nhiu ảnh đẹp!

VII-2, TẠO HIỆU ỨNG SAO CHO ĐÈN ĐÊM MÀ KHÔNG CẦN KÍNH LỌC
Với khẩu độ từ f8 trở lên khi chụp cảnh có đèn đêm, ánh đèn đã bắt đầu có hình ngôi sao léo sáng.
Tất nhiên hiệu ứng còn phụ thuộc vào tốc độ bạn chọn
Sau khi thử mẹo thứ nhất chúng ta có thể đi đến mấy kết luận sau:
- Cần phải có chân máy.
- Chụp Iso càng thấp càng tốt.
- Giá trị Khẩu độ càng lớn (f lớn) cánh sao càng dài.
- Thờ gian chụp càng lâu cánh sao càng dài

VII-3, HIỆU ỨNG ZOOM
Đây là hiệu ứng chỉ có thể chụp bởi ống kính đa tiêu cự hay ống kính zoom. Ống kính một tiêu cự thì khóc thét rồi
Ta có thể để máy ở tốc độ chậm và thay đổi tiêu cự trong lúc màn trập đang mở, sẽ tạo ra những vệt mờ ở tâm bức hình toả ra.
Hiệu quả này thêm thú vị nếu kết hợp với lia máy.
Các bạn hãy thử và đăng ảnh cũng như kết luận của mình vào đây nhé, tôi sẽ kết luận chung lại khi chúng ta đi tiếp mẹo số 3.
Có phải thế này không bác Lekima?? Cách này trong PS cũng có kỹ xảo làm. Nhưng đây là em thử theo cách của bác, chụp cái góc làm việc tồi tàn của em.
Bác cho cái mẹo vặt số 3 lên đi, em chờ


VII-4, MẸO ĐO SÁNG THAY THẾ
Đa phần các máy đu có hệ thống đo sáng bên trong máy ảnh giúp chúng ta chọn lựa tốc độ và khẩu độ phù hợp cho film lộ sáng đúng.
Hệ thống này là đo ánh sáng phản chiếu (reflected light - đo xuôi) từ chủ đ "hắt" vào máy ảnh, gắn kính lọc nó sẽ điu chỉnh theo.
Nhiu hãng sản xuất vật liệu nhiếp ảnh sản xuất một loại bìa để hộ trợ đo sáng gọi là bìa xám (gray card). Tấm bìa có hai mặt, một mặt màu trắng phản chiếu 90% ánh sáng, mặt màu xám trung bình giữa trắng và đen phản chiếu 18% ánh sáng rọi vào.
Vì lòng bàn tay ta, với màu da trung bình phản chiếu 18% ánh sáng như một mặt của tấm bìa xám nên có thể dùng để đo thay thế.
u ý:
- Vì lượng sáng phản chiếu căn cứ theo ánh sáng trực tiếp (incident light), nên tay cũng phải đặt song song với chủ đ hay mặt phẳng được chụp ảnh. Đảm bảo lòng bàn tay nhận cùng lượng sáng như chủ đ.
- Với da trắng ta mở lớn thêm một khẩu độ, với da đen ta đóng nhỏ bớt một khẩu độ. Điu đó cũng có nghĩa là ta có thể dùng một chiếc khăn trắng (tôi dùng cái khăn lau ông kính), để đo thay thế cho cho bất kỳ vật trắng nào ở xa mà ta muốn giữ nguyên màu trắng khi in ảnh. Có bác nào chụp tượng phật chẳng hạn.
Hay cởi bỏ cái áo đen khỏi người , ta có thể đo thay thế cho những vùng tối xẫm cần lấy.
Hay chúng ta có thể đo bụi cây ở gần để lấy màu xanh cho những cây ở xa.
Việc đo này sẽ cụ thể theo hướng dẫn của tùng loại máy ảnh. Và cũng lưu ý là phải luôn đảm bảo vật đo thay thế ở cùng nguồn sáng, cùng góc độ với vật thể được ghi hình.

VII-5, BỒI ĐÈN TRONG CHỤP TỐC ĐỘ CHẬM
Tôi chỉ xin giới thiệu sơ bộ để chúng ta có thể sử dụng và vận dụng. Đó là khi chụp ở tốc độ chậm trong bóng tối, chúng ta có thể chiếu sáng nhiu lần để tạo hiệu quả ảnh khác biệt. Ví dụ: khi chụp người đang múa, ta chụp chậm và nháy đèn 3 lần. Trong điu kiện ánh sáng tối sẽ xuất hiện người múa ở 3 tư thế khác nhau. Ngày trước chúng tôi còn bịt thêm cái giấy che bồng tối (màu đỏ) hoặc giấy làm đèn ông sao trước đèn... nó cung sẽ làm cho màu mặt, cơ thể của đối tương chụp ở mỗi động tác là khác nhau. Hiệu quả này khá thú vị các bạn hãy thử nhé.
Cùng cần nói thêm là trong chụp kiến trúc, nội thất thì việc bồi đèn để chiếu sáng những vùng tối cũng hay sử dụng.
Tặng các bác cái hình minh họa strobe flash.

Canon 20D
Sigma EF 500DG Super Flash
Mode Tv: 1sec
Flash seq: 3Hz
Power : ¼
VII-6, KÍNH LỌC MÀU CHO ĐÈN VÀ ỐNG KÍNH
Bạn đã bao giờ nghĩ đến và bao giờ sử dụng chưa, nếu chưa thì hãy nên làm. Đại ý là chúng ta gắn kính lọc mầu vào ống kính, một kính lọc màu khác vào đèn. Tốt nhất là đèn xoay hoặc đèn trong studio để cho ánh sáng không "hắt" thẳng vào chủ thể.
Màu của hai kính đó thường là hai màu bổ túc cho nhau như cam - tím, xanh - vàng, đỏ - xanh lá cây....
Nào chờ các bác thử nhé!