NHIẾP ẢNH SỐ TOÀN TẬP
(sưu tầm)
Mục lục:
NHIẾP ẢNH SỐ TOÀN TẬP - PHẦN 1
I, Overture
II, Máy ảnh số và nhiếp ảnh số
II-1. Chọn máy ảnh
II-2. Có những gì trong một dCam?
II-3. Thẻ nhớ: không còn bí ẩn
II-4. Sự khác biệt giữa máy ảnh số và máy ảnh cơ
II-5. Xsync, Hsync, Exposure time, Flash photography
II-6. Kính lọc
III, Kỹ thuật chụp ảnh
III-1. Kỹ thuật căn bản
III-2. Nguyên tắc chụp ảnh
III-3. Độ nét sâu của trường ảnh
III-4. Tốc độ chụp ảnh
III-5. Các chế độ đo sáng
III-6. Các hiệu chỉnh khác
IV, Ngôn ngữ nhiếp ảnh
IV-1. Less is more
IV-2. Tương phản trong Nhiếp ảnh
IV-3. Quy tắc bố cục tranh phong cảnh
IV-4. Bố cục ảnh
IV-5. Yếu tố phụ trong bố cục
IV-6. Đường nét trong bố cục
IV-7. Bố cục và sáng tạo
IV-8. Các yếu tố hình họa của hình ảnh
IV-9. Những quy tắc, định luật Nhiếp ảnh
-----------------------------------------------
NHIẾP ẢNH SỐ TOÀN TẬP - PHẦN 2
V, Các thể loại nhiếp ảnh thông dụng
V-1. Chụp ảnh chân dung
V-2. Ánh sáng trong ảnh chân dung
V-3. Chụp ảnh phong cảnh
V-4. Chụp close up và ảnh hoa
V-5. Chụp ảnh báo chí
VI, Xử lý ảnh
VI-1. Hiểu thêm về các thông số của ảnh
VI-2. RAW vs JPEG
VI-3. Kỹ thuật chuyển ảnh mầu sang đen trắng
VI-4. Kỹ thuật xử lý ảnh Đen Trắng trong buồng tối
VI-5. Tối ưu ảnh trước khi up lên site
VI-6. Làm border ảnh bằng Photoshop và vấn đề giữ exif
VI-7. Khắc phục Out nét
VI-8. Cứu ảnh bị xóa trên thẻ nhớ
VI-9. In ảnh tại Labs
VII, Mẹo vặt và hỏi đáp
VII-1. Kinh nghiệm chụp cho người mới bắt đầu
VII-2. Tạo hiệu ứng sao cho đèn đêm mà không cần kính lọc
VII-3. Hiệu ứng zoom
VII-4. Mẹo đo sáng thay thế
VII-5. Bồi đèn trong chụp tốc độ chậm
VII-6. Kính lọc màu cho đèn và ống kính:
-----------------------------------------------
NHIẾP ẢNH SỐ TOÀN TẬP - PHẦN 3
VIII, Kinh nghiệm xem ảnh
VIII, Kinh nghiệm xem ảnh
VIII-1. Nghệ thuật xem ảnh
VIII-2. Tăng giảm bù trừ sáng (EV+/-)
VIII-3. Bù trừ sáng (EV)
VIII-4. Kinh nghiệm đo sáng
VIII-5. Đặt tên cho ảnh
VIII-6. Bóng đổ - bóng ngả - bóng đối xứng - bóng khối
VIII-7. Tone màu?
VIII-8. Chế độ chụp
VIII-9. Lấy nét - chế độ màu
VIII-10. AEB
IX, Kinh nghiệm chụp ảnh
IX-1. Chụp cảnh hoàng hôn
IX-2. Cỡ ảnh, kỹ thuật chụp đêm
IX-3. Chụp ảnh lưu niệm
IX-4. Chụp ảnh khi trời mưa
IX-5. Chụp ảnh khi trời gió
IX-6. Mưa đêm và những tia chớp
IX-7. Chụp ảnh trong sương mù
IX-8. Chụp ảnh khi tuyết rơi
IX-9. Chụp ảnh biển
IX-10. Chụp ảnh chân dung
IX-11. Chụp pháo hoa
IX-12. Chụp ảnh nội thất
IX-13. Căn chỉnh màn hình máy tính của bạn
X, Nhiếp ảnh - Lý luận phê bình
X-1. So sánh Canon và Nikon
X-2. Noise – vỡ hạt ảnh
X-3. Xử lý bụi bám trên sensor
X-4. Khẩu độ sáng
X-5. Nghệ thuật và sự dung tục
X-6. Hệ số nhân tiêu cự
X-7. Ảnh đen trắng trong thời đại số
X-8. Bố cục - hội họa và nhiếp ảnh?
XI, Thông tin về sách
---------------------------------
NHIẾP ẢNH SỐ TOÀN TẬP - PHẦN 3
VIII, KINH NGHIỆM XEM
ẢNH
VIII-1, NGHỆ THUẬT XEM
ẢNH
Nghệ thuật nhiếp ảnh đã
có mặt và đi vào đời sống,tâm hồn của những nhười yêu nghệ thuật trên toàn thế giới
cũng như trên đất nước Việt Nam từ rất lâu.
Tuy vậy,ngày nay vẫn còn
rất nhiều người chưa thật hiểu thấu đáo về nghệ thuật nhiếp ảnh.
Ngoài những kĩ thuật với
máy móc,những sáng tạo xuất phát từ tâm hồn nghệ sĩ và con mắt nhậy cảm với cái
đẹp của những nghệ sĩ nhiếp ảnh còn phải kể đến nghệ thuật xem ảnh,nó cũng là
một "GU" thưởng thức nghệ thuật mà mỗi người mỗi khác
nhau,nhưng có những nguyên tắc chung mà ai cũng phải tuân theo.
Chắc bạn sẽ nghĩ rằng
xem ảnh thì có gì mà không biết cách : cầm ảnh vào tay rồi đánh mắt nhìn chứ
gì?
Nhưng thật ra không chỉ
đơn giản thế đâu :ảnh cũng giống như những vật ta luôn va chạm hàng
ngày (nhìn đâu chẳng thấy ảnh:báo chí,sách vở,trên máy
tính,....); tuy tiếp xúc nhiều nhưng chúng ta vẫn chưa biết sử dụng chính xác.
Kể cả những nhà nhiếp ảnh
chuyên nghiệp hay những nhà phê bình nghệ thuật (chứ chưa nói đến những người
nghiệp dư) đều xem ảnh chưa đúng phương pháp.
Về cấu tạo thì máy
ảnh là một con mắt lớn : kích thước của ảnh in trên kính mờ phụ thuộc vào
khoảng cách giữa vật kính và vặt cần chụp.Máy ảnh thu được
hình phối cảnh của đồ vật lên tấm phim giống như hình ảnh mà
"một con mắt" của chúng ta đặt ở vật kính nhìn thấy.
Do đó,khi ta muốn nhìn
tấm ảnh với những ấn tượng về thị giác hoàn toàn giống với nguyên vật thì
chúng ta phải tuân theo một số nguyên tắc sau đây:
1. Nhìn ảnh chỉ bằng
"một con mắt"
Khi chúng ta nhìn ảnh
bằng cả hai con mắt thì những tia sáng phát ra từ vật sẽ đi tới thuỷ tinh thể
của cả hai mắt và cho một loạt tia ló tới điểm vàng nằm trên võng mạc.Những tia
ló này được xuất phát từ những điểm cách xa nhau (khoảng cách giữa hai mắt) nên
cho ta một bức tranh hoàn toàn phẳng,chứ không còn là hình ảnh có chiều sâu như bản
chất của nó nữa.
Ở đây mình sẽ không đi
sâu giải thích kĩ hơn vì khái niệm này liên quan tới nhiều vấn đề phức tạp
của quang học và về đặc điểm sinh lí đặc biệt của đôi mắt.
2. Phải đặt mắt trước
ảnh một khoảng thích hợp
Khi người nghệ sỹ ngắm
chừng và bầm máy,trước mắt anh ta là phối cảnh chính xác của bức ảnh thực hoàn
toàn.Nhưng khi chúng ta khi xem ảnh ở một khoảng cách không chính xác thì
toàn bộ phối cảnh (Gồm cả những hiệu ứng đặc biệt mà người nghệ sĩ muốn thể
hiện) sẽ bị thay đổi hoàn toàn.
**Vậy cần xem ảnh với
khoảng cách chính xác là bao nhiêu?
Muốn có được một ấn
tượng về phối cảnh hoàn toàn giống với những gì người nghệ sỹ nhiếp ảnh đã
ngắm chừng khi bấm máy,để thưởng thức những sáng tạo về bố cục và phối
cảnh mà người nghệ sỹ muốn thể hiện thì ta phải nhìn ảnh dười một góc trông
bằng đúng góc trông mà vật kính của máy ảnh đã "nhìn" hình trên kính
mờ của buồng tối (Hay chính là góc trông mà vật kính "nhìn" vật được
chụp).
Như vậy hình của
vật nhỏ hơn kích thứớc tự nhiên bao nhiêu lần thì phải đặt tấm ảnh cách mắt một
khoảng nhỏ hơn khoảng cách từ vật đến vật kính của máy ảnh
bấy nhiêu lần (Sử dụng định lý về tam giác đồng dạng ấy mà).Hay nói cách
khác,cần phải đặt ảnh cách mắt một khoảng xấp xỉ bằng
tiêu cự của vật kính (hai giá trị này càng gần nhau càng tốt).
Trên đây là một số
nguyên tắc đơn giản nhất của nghệ thuật xem ảnh, bài viết của mình có tham khảo
cuốn "Fun Physics" của tác giả người Nga IA.I.Perenman.
VIII-2, TĂNG GIẢM BÙ TRỪ
SÁNG (EV+/-)
Nguyên tắc của việc hiệu
chỉnh Ev sau khi đã có kết quả đo sáng tự động của máy ảnh là:
- Nếu coi giá trị đo
sáng "chuẩn" là "Ev-C" thì: Ev-C +2 1/2 Ev=trắng tinh; Ev-C
- 2 1/2 Ev = tối đen. Tối đen -2 1/2 Ev //
Ev-C // +2 1/2 Ev Trắng tinh
- Nếu ta có một chủ thể
xác định trước một phông thì hiệu chỉnh Ev được làm theo nguyên tắc: nếu phông
sáng hơn chủ thể thì +Ev; nếu phông tối hơn chủ thể thì -Ev
Bạn cũng nên biết rằng
không tồn tại một giá trị đo sáng "chính xác" trong sáng tạo. Hiệu
quả ánh sáng phụ thuộc duy nhất và ý đồ sáng tạo của bạn mà thôi. Hiệu chỉnh Ev
có để lại "ảnh hưởng" trên ảnh, cụ thể là: +Ev sẽ làm giảm chi tiết
trong các vùng ánh sáng cao, -Ev làm giảm chi tiết trong các vùng ánh sáng
thấp.
Bạn nên quan sát toàn
cảnh trước khi quyết định tấm ảnh mình sẽ tối hay sáng nhé.
VIII-3, BÙ TRỪ SÁNG (EV)
Chế độ bù sáng
không quá phức tạp nhưng lại có hiệu quả bất ngờ.
Mỗi một máy ảnh, từ máy
bình dân tới SLR hay DSLR đều có khả năng đo sáng. Có nhiều tình huống như đo
sáng điểm hoặc đo ma trận.
Nếu đo ma trận, máy sẽ
đo nhiều điểm và cho giá trị trung bình. Trong điều kiện thông thường, cách đo
này sẽ là đúng
Tuy nhiên nếu bạn chụp
các đối tượng có độ tương phản cao như chụp dòng sông dưới ánh nắng, chụp
kim loại, chụp bãi biển,… bạn sẽ dễ dàng nhìn thấy rằng hình ảnh cho ra không
như ý muốn. Do độ chênh lệch sáng tối cao, máy tính toán sẽ không chính
xác. Thông thường chủ thể bị tối với bức ảnh có nền sáng và chủ thể bị quá sáng
với bức ảnh có nền tối. Trường hợp này sẽ phải sử dụng chế độ bù sáng EV
để có ảnh với ánh sáng đúng hơn.
Các bác nào có kinh
nghiệm xin chi giáo thêm để được học hỏi.
Để có một bức ảnh rõ
ràng với đủ các tông màu, có exposure đúng, nghĩa là phải có đủ lượng ánh sáng
được thu vào phim hay image sensor. Điều này phụ thuộc vào độ nhạy sáng ISO và
2 yếu tố: tốc độ sập điều khiển khoảng thời gian mà ánh sáng chạy qua ống kính
và kích cỡ cuả độ mở ống kính cho phép mức độ sáng. Bạn có thể điều khiển điều
này một cách tự động hay bằng tay bằng cách chỉnh các thông số tương ứng.
Đo sáng:
Ngày nay gần như máy ảnh
nào cũng có thiết bị đo sáng được thiết kế sẵn bên trong. Quay ống kính về phía
đối tượng cần chụp và thiết bị đo sáng sẽ tự động tính toán mức độ sáng. Bạn có
thể chấp nhận thiết lập cuả máy và chụp.
Nhiều ng thích ảnh cuả
họ hơi tối một chút (vd: Sicily198x) nhiều ng khác thì lại thích ảnh sáng rõ
ràng để có thể nhìn rõ vật chụp và mọi thứ xung quanh. Tuy nhiên về nguyên
tắc, ánh sáng tốt là ảnh làm sao mà mắt nhìn tuyết trắng, cỏ xanh hay một con
báo đen với đầy đủ chi tiết. Nếu tuyết mà màu xám, cỏ nhợt nhạt hay con báo đen
thành con báo xám thì coi như bạn đã đo sáng sai.
Midtone:
Các thiết bị đo sáng cuả
máy ảnh đã được lập trình sẵn để cho ra ánh sáng đúng cuả vùng midtone: là vùng
mà ko quá sáng hay quá tối.
Màu xám cuả tảng đá,
vùng tối cuả tấm bêtông ví dụ thường là midtone. Một khuôn mặt rám nắng, cỏ
xanh ... có thể coi gần như là midtone (tất nhiên là tương đối thôi
tuỳ trường hợp). Rất nhiều trường hợp, bạn chụp cảnh mà bao gồm cả vùng sáng và
vùng tối, vd như khi bạn chụp đồng cỏ xanh, ng mặc quần áo màu sắc và bầu trời
hơi sáng một chút thì những cảnh như vậy sẽ được máy đo sáng tương đối
chính xác. Tuy nhiên có những trường hợp mà đo sáng cuả máy ko cho ra một bức
ảnh tốt. Ví dụ khi vật chụp chỉ toàn trắng hay đen:
Khi nào mà bạn định chụp
tấm hình chủ yếu vật chỉ trắng hay đen hay một vùng rất lớn rất sáng hay rất
tối, hầu hết hệ thống đo sáng cuả máy ảnh sẽ cho ra kết quả ko như ý. Nếu
bạn chụp ẩu một cái ô tô màu đen, nó có thể sẽ bị xám, một thằng ng tuyết cũng
có thể bị xám.
Hay khi bạn chụp phong
cảnh mà bầu trời rất sáng thì vùng nước ở dưới sẽ có thể bị tối vì đo sáng cuả
máy cố gắng lấy ánh sáng trung bình theo midtone đã được lâp trình sẵn. Trong
những trường hợp như vậy, bạn ko nên dựa vào đo sáng cuả máy để có độ phơi
sáng đúng cho tấm ảnh.
Cách đo sáng trong
trường hợp như vậy:
Tìm cái gì thay thế:
Cách này đơn giản là bạn chĩ máy vào vùng midtone để đo sáng thay vì chĩa máy
vào thằng ng tuyết chẳng hạn và đo sáng từ đó. Hay nếu bầu trời quá sáng thì
bạn đo sáng vào phần còn lại. Tất nhiên đấy chỉ là cách mà bạn đã cho rằng phần
còn lại là vùng midtone, cách chính xác hơn mà anh Amateur đã nói từ xưa là
dùng bàn tay hoặc gray card. Dùng graycard để gần vật định chụp, cho máy đọc
ánh sáng từ đó, ghi nhớ giá trị Fstop và shutter speed, rồi chụp dự trên 2 giá
trị đó.
Lúc chĩa máy vào cái
gray card, nhấn nút AE lock, máy sẽ chọn và khoá các giá trị đo được từ cái
graycard, nếu ko biết AE lock ở đâu hãy xem lại manual cuả máy ...
Trong trường hợp bạn ko
có cả graycard (lẫn bàn tay ) hay bạn cũng chẳng biết đâu là vùng sáng vừ
midtone thì theo tôi cách tốt nhất là bạn tăng sáng cho vật sáng để giữ cho
chúng nó sáng và giảm sáng cho vật tối để cho chúng nó tối ( tức là dùng chức
năng bù sáng:
Exposure compensation
hay tăng giảm Fstop hay shutter speed một cách tương ứng)
Bộ đo sáng trong máy:
Thiết bị đo sáng đo ánh
sáng phản chiếu từ vật định chụp tuy nhiên thiết bị này cũng đọc và đo theo
nhiều kiểu khác nhau.
Center weighted: Đo sáng
sẽ đọc ánh sáng ở hầu hết khung hình nhưng favor chủ yếu vào phần trung tâm
(vd: sẽ bỏ qua bầu trời rất sáng ở góc trên ). Do vậy đo sáng sẽ lấy trung bình
ở phần khá rộng nên phơi sáng cuả ảnh cũng tương đối tốt ở nhiều trường hợp
chụp ngoài trời.
Spot Meter: Thông thường
sẽ có một cái vòng tròn ở giữa trong cái vỉewfinder chỉ ra đó là khu vực mà
thiết bị đo sáng sẽ đo. Kiểu đo sáng này thích hợp khi mà bạn muốn đo sáng
trong một khu vực nhỏ vd như mặt thằng bé bị ngược sáng hay graycard.
Evaluative ( hay
multizone hay matrix ...): Đo sáng đánh giá các mẫu ánh sáng trong khung hình
và thiết lập thông số bằng AI (thông minh nhân tạo) Vd: chế độ này sẽ bỏ
qua vùng cực sáng ở trong tấm hình và chỉ tính sáng ở phần còn lại. Thông
thường, chế độ này cho đo sáng chính xác hơn chế độ centerweighted
khi bắn nhanh. Các cameras ngày nay đo rất chính xác và biết tự động bù sáng ở
chế độ này.
Bracketing Exposure:
Là gì? Là bắn cùng một
cảnh 3 tấm khác nhau với mỗi tấm ảnh một mức độ sáng tối khác nhau. Thiết lập
chế độ này, có thể chuyển từ 1/3, 1/2 , 1 stop ... và chỉ việc xạch xạch
xạch...
Cuối cùng, có vài thiết
bị đo sáng ngoài, bạn có thể mua và xài thử chơi nếu thích. Trên đây là cơ bản
về đo sáng mà tôi được biết, mong các bác nào có kinh nghiệm thêm thắt bổ
sung phần nâng cao cho mọi ng cùng học hỏi.
Bổ sung 1 chi tiết nhỏ
cho bài viết rất chi tiết của Ravine_79.
Chế độ đo sáng
Center Weight đo sáng sáng theo trung tâm điểm đo mình chọn rồi lấy thêm ra 1
vùng xung quanh như đã giải thích.
Vùng này đa số có diện
tích 9-10% của khung ảnh. Điều này nhiều khi quan trọng vì nếu chủ thể của bạn
nhỏ quá mà phần xung quanh sáng quá hay tối quá so với chủ thể thì bạn nên dùng
Spot Metering cho chính xác vì sợ rằng 10% khung ảnh cũng có thể ảnh hưởng đến
độ chính xác của máy đo.
Ghi chú dí dỏm: nếu bạn
nào đi chụp hình mà không có tay để đo sáng thì ... cầm tay cô người mẫu mà đo
sáng... đảm bảo chính xác.
Thôi, các bác cho tôi
giải thích theo cách hiểu của tôi như thế này, các bác xem có OK
không nhé.
Bình thường, khi các bác
chụp, các bác thường chỉnh độ mở ống kính và để cho máy tự động đưa ra thông số
tốc độ. Vậy dựa vào đâu mà máy lại lấy thông số tốc độ? Nó dựa vào cái màu sắc
trong khuôn hình mà chúng ta đang ngắm. Trong đa số trường hợp thông thường,
máy ảnh chọn đúng tốc độ dẫn đến bức ảnh đẹp đó là trường hợp 1: Máy ảnh đúng.
1. Máy ảnh đúng: Đây là trường hợp khi chúng ta ngắm một
phong cảnh đẹp, ánh nắng OK (không quá tối, không quá sáng), các thành phần,c
hủ thể trong ảnh (khung ngắm) có độ chênh lệch về độ sáng tối không nhiều
thì máy ảnh thường đúng trong trường hợp này. Khi này ta chẳng phải bù trừ gì
cả.
2. Trường hợp sáng nhiều
hơn tối: Ví dụ cho trường
hợp này là bạn chụp một cậu bé đứng trước một bức tường sáng choang, bức tường
đó lớn hơn cậu bé đó khá nhiều (về tỷ lệ) vậy trong trường hợp đó máy ảnh
tính toán như sau: Khuôn hình là 100%, 85% sáng (bức tường), 15% tối
(cậu bé) vậy cần phải đưa ra tốc độ nhanh hơn để ít sáng đi. Kết quả là: Cậu bé
bị tối và bức tường thì có vẻ là OK.
Ảnh ta sẽ bị hỏng vì chủ
thể cậu bé lại bị tối.
Trong trường hợp này, ta
"bắt bài" máy ảnh, biết nó sẽ cho ảnh tối hơn thông thường thì ta
tăng sáng lên chút đỉnh (bao nhiêu thì do kinh nghiệm, tôi không phải người có
kinh nghiệm) gọi là tăng EV lên +.
3. Tối nhiều hơn sáng: Trường hợp này thì ngược lại trường hợp
trên.
Đây là kinh nghiệm của
cá nhân tôi, tôi chỉ biết mỗi vậy, sai đúng thì các bác sửa để tôi rút kinh
nghiệm thêm. Thanks!
Nếu OK thì các bác động
viên chút cho máu, tôi xin chia sẻ tiếp.
Các bác cứ hình dung thế này
nhé. Tăng EV là để ảnh sáng hơn, vậy tại sao ảnh lại sáng hơn? Chả lẽ vẫn thông
số đó mà ảnh lại sáng hơn được à, vô lý quá. Vậy thực chất của việc tăng EV là
gì?
Ví dụ ta chọn AV mode,
khẩu mở f3.5, máy tính ra tốc độ 1/125 -> ảnh tối. Lúc này mà ta mở khẩu ra
thì máy lại tính lại tốc độ nên kết quả chả khác gì. Vậy thì làm thế nào
để máy tính ra đúng tốc độ mong muốn -> tăng EV lên. Động tác này bảo cho
máy biết là nó đang tính sai rồi -> ảnh ra tối -> tính lại tốc độ đi.
Nếu ở TV mode thì máy sẽ
tính lại khẩu cho phù hợp, ở đây xảy ra trường hợp này. Ví dụ ta để tốc độ là
1/60 -> máy tính ra khẩu là f1.8 và f1.8 cũng là mở hết cỡ rồi -> giờ ta
chỉnh EV lên 2 stop chăng nữa thì ảnh vẫn cứ tối như cũ vì máy không thể
nào mở khẩu thêm được nữa.
Trường hợp trên của bác
daoducquan sẽ dẫn đến bức tường bị cháy nhưng đổi lại cậu bé lại không bị tối
nữa.
Em học mót của bác
asahinguyen một vài thứ về ev, đem ra để các bác tham khảo thôi nhé
Exposure Value (Ev)
Trong nhiếp ảnh, sự kết
hợp của độ mở ống kính và tốc độ chụp cho ta một đại lượng đặc trưng gọi là
Exposure value (Ev). Ev 0 là khi ta đặt khẩu độ là 1 ở tốc độ chụp là 1 giây.
Ev được tính bằng kết hợp hai hàm logarit của giá trị độ mở ống kính (Apeture
value) và giá trị của thời chụp (Time Value).
EV = Av + Tv
Gọi N là trị số khẩu độ
( f-number) ta có Apeture value :
Nếu t là thời chụp tính bằng giây ta có Time Value:
Các công thức trên chỉ để tham khảo. Trong thực tế thì bạn chỉ cần hiểu là với khi bạn mở ống kính thêm một khẩu độ thì thời gian chụp phải giảm đi một nửa (hay ngược lại) thì Ev không thay đổi. Các bạn cần lưu ý một điểm mà các bạn mới chụp hay nhầm lẫn là mở ống kính thêm một khẩu nghĩa là giảm f-number một stop. Ví dụ như từ f/8 về f/5.6 .
Nếu t là thời chụp tính bằng giây ta có Time Value:
Các công thức trên chỉ để tham khảo. Trong thực tế thì bạn chỉ cần hiểu là với khi bạn mở ống kính thêm một khẩu độ thì thời gian chụp phải giảm đi một nửa (hay ngược lại) thì Ev không thay đổi. Các bạn cần lưu ý một điểm mà các bạn mới chụp hay nhầm lẫn là mở ống kính thêm một khẩu nghĩa là giảm f-number một stop. Ví dụ như từ f/8 về f/5.6 .
Ánh sáng tác động vào
film còn phụ thuộc vào độ nhạy sáng của film. Độ nhạy sáng của film thì đơn
giản như khẩu độ hay tốc độ chụp là tăng gấp đôi thì lượng sáng vào sẽ
tăng gấp đôi. Film 100asa thì gấp đôi 50asa, 200asa thì gấp đôi film 100asa…
Tùy thuộc vào điều kiện chụp khác nhau sẽ có những chọn lựa khác nhau .Tuy
nhiên để đơn giản thì các bạn mới chụp nên căn cứ vào mức chuẩn 100asa.
Quay lại độ sáng của
hình chụp, đó là kết quả của việc dựa vào ánh sáng của chủ đề, độ nhạy sáng của
film, khẩu độ và tốc độ chụp. Độ nhạy sáng của film thì tất nhiên là càng thấp
thì hình ảnh càng mịn. Nhưng không phải điều kiện nào cũng có thể chọn lựa film
có độ nhạy thấp được. Chúng ta sẽ quay trở lại vấn đề này trong bài nói về film.
Còn bây giờ để đơn giản thì hãy chọn film 100asa và quan tâm đến khẩu độ và tốc
độ.
Trong bảng trên, các giá
trị Ev giống nhau sẽ nằm trên một đường chéo từ góc dưới bên trái sang góc trên
bên phải. Ngay tại một Ev nào đó trong bảng, dóng thẳng sang bên trái và thẳng
lên phía trên bạn sẽ tìm được một cặp Khẩu độ và tốc độ tương ứng. Nhìn
trong bảng bạn sẽ thấy có nhiều cặp khẩu độ khác nhau cho cùng một Ev.....
Copyright asahinguyen @
photo.net- 5/2005
Như vậy giống như bác
dauducquan đã nói, trường hợp nền chiếm phần lớn, hay trường hợp nền chênh sáng
rất mạnh so với chủ thể, muốn đo sáng đúng chủ thể thì phải tăng giảm Ev, em ít
chụp Tv, vì em thuờng xài ống kính có khẩu độ manual, vặn tay ko set được trên
máy nên hoặc Av hoặc M. Nếu M thì chịu rồi, còn nếu Av thì khi giữ nguyên khẩu
độ, chụp ảnh bị sáng quá( hay tối quá), tăng giảm Ev sẽ thay đổi tốc đọ màn
trập==) giúp ảnh ra ánh sáng hợp lý. Tv thế nào em chưa thử Bàn về ánh
sáng âm và ánh sáng dương, tiếng Anh gọi là low-key và hi-key, thức là làm ảnh
sáng hay tối hơn rất nhiều so với bt, để thể hiện ý đồ riêng của tác giả, có
thể dùng M làm điều này, nhưng thường họ sẽ cộng trừ Ev tiện hơn và nhanh hơn.
Ánh sáng là một trong
những yếu tố quyết định của một tấm ảnh đẹp. Lấy sáng cho đúng là một công đoạn
quyết định. Trong nhiều trường hợp, chúng ta hay ỷ lại vào kỹ thuật đo sáng của
máy ảnh và chỉ chăm lo đến bố cục, góc chụp mà thôi. Tuy nhiên trong nhiều
trường hợp việc đo sáng tự động hoàn toàn không thể cho ra được một bức ảnh như ý.
Do đó đo sáng bằng tay là một trong những kiến thức quan trọng đối với những ai
có mong muốn kiểm soát được chất lượng của bức ảnh.
Mắt người có thể phân
biệt được khoảng 15 bậc độ sáng, mỗi bậc tương đượng với một nấc khẩu độ hay
tốc độ (VD: 1/4-1/5.6 hay 1/125-1/250). Trong khi đó sensor của máy ảnh số hay
phim chỉ có thể phân biệt được một khoảng contrast tối đa là 7-8 bậc mà thôi.
Khoảng contrast ghi nhận
được gọi là dynamic range.
VD Máy Canon 350D có thể
ghi nhận được từ EV0 đến EV20 (xem bảng số liệu cua Anhhang). Tuy nhiên trong
trong số 20 bậc này, một bức ảnh chỉ có thể có thể cho ra chi tiết tốt trong
một khoảng contrast tối đa là 8 bậc.
Ansel Adam đưa ra lý
thuyết về vùng sáng (Zone system), theo đó độ sáng được chia ra làm 11
vùng, đánh số từ 0-10. Khoảng contrast tối đa mà máy ảnh có thể ghi nhận được
chỉ có 7-8 vùng trong số đó mà thôi. Chính người chụp sẽ quyết định sử dụng các
vùng đó như thế nào để đạt được yêu cầu sáng tác.
Trong nhiều tình huống
cụ thể khi contrast của cảnh vượt quá giới hạn dynamic range của máy (VD chênh
lệch 10 độ sáng chẳng hạn) thì có ba khả năng xảy ra:
1. Nếu ta đo sáng vào
vùng có độ sáng trung bình thì những vùng quá tối (0,1) sẽ biến thành các mảng
đen kịt trong khi đó các vùng quá sáng (9, 10) sẽ hoàn toàn bị cháy trắng và
không còn chi tiết.
2. Nếu ta đo sáng vào
vùng tương đối tối (vùng 3 chẳng hạn) thì máy ảnh sẽ chỉnh thông số lấy sáng để
làm rõ chi tiết vùng này. Kết quả là chúng ta có thể ghi nhận được chi tiết từ
vùng rất tối (vùng 0) đến vùng sáng trung bình (vùng 7). Các chi tiết có độ
sáng từ vùng 8 trở lên sẽ hoàn toàn bị xóa trắng.
3. Nếu ta đo sáng theo
vùng tương đối sáng (VD: vùng 7) thì máy ảnh sẽ tự set các thông số sao cho
vùng đó có độ sáng trở thành trung bình (vùng 5). Điều này tương đương với việc
máy đã giảm độ sáng thực khoảng 2 stop (2 mức khẩu độ hoạc 1/4 thời gian lấy
sáng) để trở thành độ sáng trên phim.
Theo phương án đo sáng 1
(PA thường được dùng nhất) thì chỉ có những chi tiết có độ sáng trung bình là
được ghi nhận. Nhưng nhiều khi những chi tiết đắt giá nhất của bức ảnh lại nằm
trong vùng hơi sáng hoặc hơi tối, bức ảnh được xem là không đạt yêu cầu.
Theo PA đo sáng 2, chi
tiết của vùng hơi sáng bị xóa sạch. Nếu chúng ta muốn lấy thêm chi tiết ở vùng
hơi sáng, có thể chỉnh lại các thông số lấy sáng để cân bằng lại. Ví dụ nếu ta
giảm 1 EV (giảm một nấc khẩu độ hoặc thời gian). Như vậy chúng ta sẽ ghi
nhận bớt đi vùng tối 0 nhưng tăng thêm chi tiết ở vùng 8. Khoảng contrast ghi
nhận được là 1-8 thay vì 0-7 như trong trường hợp không bù sáng. Nếu tăng 2 EV thì vùng được
ghi nhận trên máy ảnh sẽ là 2-9. Tăng EV được gọii là bù sáng dương, giảm EV là
bù sáng âm.
Trường hợp tăng EV khi
đo vào vùng sáng cũng được lý giải tương tự nhưng theo hướng ngược lại.
Phương pháp đo sáng bình
quân (Evaluative hay matrix) chia toàn bộ đối tượng ra thành nhiều vùng nhỏ,
xác định độ sáng của các vùng nhỏ này và lấy trung bình theo một thuật toán
định sẵn trong máy.
Như vậy nếu vùng
sáng chiếm tỷ lệ cao thì các đối tượng tối sẽ mất hết chi tiết và ngược lại.
Lưu ý rằng độ sáng mà
máy ảnh ghi nhận được là cường độ sáng phản xạ lại từ đối tượng. Do đó các đối
tương có màu khác nhau trong cùng một điều kiện chiếu sáng sẽ cho ra các
thông số chụp khác nhau trong máy. Màu được xem là trung tính là màu xám
(127,127,127), ứng với mức độ phản xạ là 18%.
Các đối tương màu trắng
như tuyết, mặt nước... có mức độ phản xạ cao hơn nên thường đánh lừa được
máy ảnh. Nếu chụp các đối tượng này ảnh thường bị thiếu sáng. Do đó sau khi đo
sáng xong, cần tăng thêm 1-2 EV.
Ngược lại các đối tương
màu đen lại có độ phản xạ nhỏ nên nếu chụp tự động ảnh có thể bị dư sáng.
Chúng ta có thể làm một
thí nghiệm kiểm tra nhỏ như sau:
- chọn ra các tấm bìa có
màu sắc khác nhau đặt cạnh nhau trong cùng một điều kiện nguồn sáng.
- Chọn chế độ đo
sáng điểm (spot) hay vùng nhỏ (partial) để ghi nhận lại cách mà hệ thống đo
sáng cảm nhận trên mỗi màu sắc khác nhau.
Tóm lại: kỹ thuật đo
sáng điểm và hiệu chỉnh EV để đạt được độ sáng tốt cho vùng quan trọng nhất của
bức ảnh là một kỹ thuật căn bản và quan trọng, đặc biệt là trong điều kiện
contrast của ánh sáng tự nhiên quá cao (chụp ngược sáng...) hay trường hợp đối
tượng có màu chủ đạo có độ phản xạ khác với màu xám trung tính.
Lý thuyết đơn giản về lấy
sáng cho máy ảnh khuyên ta nên đo sáng:
- hoặc là vào đối tượng
quan trọng nhất, chấp nhận hy sinh một phần các mảng còn lại.
- hoặc đo sáng vào vùng
7 (vùng sáng còn phân biệt được chi tiết) sau đó tăng 2 bậc EV để bù lại.
- Hoặc đo sáng vào vùng
midtone (vùng 5) và chụp theo các thông số ghi nhận được.
- Hoặc đo sáng vào vùng
hơi tối (vùng 3) và giảm 2 bậc EV.
Trong trường hợp cần hy
sinh một phần chi tiết thì nên tranh thủ lấy phần sáng. Đối với ảnh số thì một
mảng tối có thể cứu vãn được phần nào bằng photoshop; nhưng một mảng sáng đã bị
cháy thì vô phương cứu chữa! Nguyên tắc này được gọi là "Expose to the
right"
tạm dịch là đo sáng theo
vùng sáng.
Một ví dụ điển hình của
tôi thấy là: các bác hay thấy đại cao thủ chụp những bức ảnh mặt người rất đẹp
nó nội dung như sau:
Ở viền khuôn mặt có ánh
sáng nhỏ mỏng và mạnh rất đẹp (các bác ấy gọi là "ven") còn phần còn
lại của mặt thì hơi tối 1 chút. Back ground thì đen xì. Thường được giang hồ
vote đến hàng trăm điểm. Thực chất bức ảnh đó như sau:
Trên thực tế nếu để
chế độ bình thường (kô EV gì hết) thì máy ảnh nhận thức khung hình như sau:
Back ground đen, da mặt trung bình và "ven" sáng. Nó lập tức chụp một
bức hình là "ven" cháy, da mặt hơi sáng, background mờ mờ đủ rõ một
vài chi tiết "không cần thiết".
Kết luận bức này sẽ bị
xấu v・ta
muốn background đen x・ da mặt OK v・"ven" khg che.
Để được như ý, ta
chỉnh EV xuống âm - thì đương nhiên backgroud mờ mờ kia sẽ thành đen xì (che đi
những thứ không cần thiết), da mặt chuẩn và cái "ven" kia sẽ ngon
lành. Kết quả là giang hồ nhảy vào vote ầm ầm thôi.
VIII-4, KINH NGHIỆM ĐO
SÁNG
Từ khi nhiếp ảnh ra đời
cho đến này thì vấn đề đo sáng khi chụp ảnh luôn là một đề tài nóng
bỏng và hấp dẫn. Bởi vì nhiếp ảnh là vẽ bằng ánh sáng nên việc xác định đúng
lượng sáng cần thiết cho nội dung thể hiện của một tấm ảnh là cực kỳ quan
trọng. Sự khác biệt giữa nhiếp ảnh gia Pro và nghiệp dư cũng nằm tại ánh
sáng trong ảnh. Kỹ thuật đo sáng đã không ngừng phát triển mà thiết bị chuyên
dụng nổi tiếng nhất là các máy đo sáng cầm tay - Exposure Meter. Vào thoảng
thập niên 70 của thế kỷ XX thì sự tiến bộ vượt bậc của máy đo sáng lắp sắn
trong máy ảnh đã thật sự tạo một bước ngoặt và đưa các thiết bị đo sáng cầm tay
trở thành công cụ riêng của Studio. Cùng với thời gian, kinh nghiệm và tiến bộ
của khoa học thì các máy ảnh SLR và dSLR gần đây cho kết quả đo sáng chính xác
và ổn định. Nhưng chưa bao giờ máy móc có thể thay thế con người 100%.
Chính bạn là người duy nhất biết mình cần một lượng sáng bao
nhiêu cho tấm ảnh sẽ
chụp. Máy móc giúp bạn biết được các thông số kỹ thuật về ánh sáng nhưng
nó không thể nói với bạn chính xác cặp thông số "khẩu độ ống kính/tốc độ
chụp ảnh" cần thiết là bao nhiêu? Để có thể đo sáng đúng, hay xác định
chính xác, lượng ánh sáng này ta cần biết những nguyên tắc căn bản sau đây:
1. Tập cách phát hiện
ánh sáng đẹp: NTL muốn nói ngay với bạn rằng không phải khi trời nắng to thì
cũng đồng nghĩa với ánh sáng đẹp. Ánh sáng đẹp thường rất phức tạp, có nhiều độ
chuyển, tạo khối tốt...Bạn có thể gặp ánh sáng đẹp khi trời nắng, lúc ngày mưa
hay thậm chí trong một buổi chiều đông ảm đạm. Hãy tập thói quen quan sát
và phát hiện.
2. Tập cách diễn giải
ánh sáng thực địa: với kinh nghiệm của riêng cá nhân mình thì một cảnh với ánh
nắng chan hòa lại thường rất khó thể hiện ảnh đẹp và nghệ thuật như ý
muốn. Trái lại một ngày trời nhiều mây lại có cơ hội sáng tác tốt. Trước
khi bấm máy bạn nên để vài phút tự phân tích hướng sáng, bóng đổ, sự khác biệt
của tương phản giữa các vùng...Nhiều khi cùng một cảnh nhưng với ánh sáng khác nhau
sẽ cho những kết quả rất khác biệt. Chính điều kiện ánh sáng là yếu tố quyết
định bố cục và kỹ thuật của ảnh. Chụp ảnh cũng cần sự kiên nhẫn đợi đến khi có
ánh sáng thích hợp.
3. Tập cách ước lượng
ánh sáng: đây là một việc làm không dễ, có vẻ như rất Pro, thế nhưng
nếu bạn thật sự muốn đạt được thì chỉ cần luyện tập thường xuyên. Đầu tiên bạn
hãy lấy ISO 100 làm chuẩn rồi tập tự đưa ra cặp khẩu độ/tốc độ, sau đó dùng máy
ảnh xác định lại kết quả này. Khi bạn có khả năng ước lượng đúng ánh sáng thì hoàn
toàn có thể xác định chính xác độ chênh sáng giữa các vùng và có giải pháp hợp
lý.
4. Cần biết mình muốn
thể hiện cái gì. Một nhiếp ảnh gia nổi tiếng người Nhật đã nói: cách đơn giản
nhất để xác định đúng lượng sáng cần thiết cho tấm ảnh là biết được mình nhìn
tấm ảnh đó "sáng" hay "tối". Nếu lấy trị số "0"
làm mốc cho kết quả đo sáng của máy thì khi ta tiến tới + 2,5 Ev ảnh sẽ rất
sáng, khi tiến tới -2,5 Ev thì ảnh sẽ rât tối. Đây cũng là nguyên tắc căn bản
để tiến hành hiệu chỉnh kết quả đo sáng.
5. Cần biết ưu/nhược
điểm của thiết bị chụp ảnh mà mình đang sử dụng. Không phải ai cũng biết rằng
giữa phim âm bản và dương bản có hai nguyên tắc đo sáng rất khác nhau:
phim âm bản cần ưu tiên vùng ánh sáng thấp, phim dương bản cần ưu tiên vùng ánh
sáng cao. Bên cạnh đó bạn cũng cần biết chính xác "Latitude
d'exposition" (Exposure Latitude) của từng loại phim. Xin bạn đừng nhầm
lẫn khái niệm này với "Gamme Dynamique" (Dynamic Range) nhé. Còn với
kỹ thuật số hiện tại thì trừ chiếc máy Fuji S3 ra tất cả các dSLR đều tuân thủ
nguyên tắc ưu tiên vùng ánh sáng cao.
Để có thể sử dụng hiệu
quả các thiết bị đo sáng thì trước hết cần hiểu hoạt động của chúng. Ta có thể
phân ra thành 2 dòng máy đo sáng chính:
1. Exposure Meter, gồm
có:
- Light Meter: dùng để
đo ánh sáng liên tục
- Flash Meter: dùng để
đo ánh sáng đèn flash trong studio
2. TTL Meter: là loại
thiết bị gắn sẵn trong máy ảnh SLR, dSLR, MF...
Hai dòng thiết bị này
hoạt động trên hai nguyên tắc khắc hẳn nhau. "Exposure Meter" đo ánh
sáng chiếu tới chủ thể. Để biết kết quả đo sáng chính xác ta cần đặt Meter gần
nhất với chủ thể đồng thời hướng chính xác hình bán cầu mầu trắng của máy về phía
ống kính. Góc định hướng này có ảnh hưởng rất quan trọng tới kết quả đo sáng.
Thông thường người ta tìm cách sao cho trục của ống kính máy ảnh thẳng hàng với
hình bán cầu trắng này. Ưu điểm của Meter cầm tay là nó không chịu ảnh hưởng
của mầu sắc hay độ sẫm, nhạt của chủ thể. Nhưng trái lại không phải lúc nào ta
cũng có thể tới gần để đo sáng như trong trường hợp ảnh phong cảnh xa. Mẹo
để giải quyết trường hợp này là bạn giơ cao Meter hơn đầu và hướng hình
bán cầu trắng theo hướng xa máy ảnh nhất. Kết quả đo sáng của Meter chỉ chính
xác theo từng vùng và đây là một nhược điểm lớn.
Loại TTL Meter đo ánh
sáng phản xạ từ vật thể qua ống kính máy ảnh. Cách đo sáng này chính xác theo
phương diện là nó sẽ nhận được ánh sáng từ vật thể có kể đến cả những thay đổi
trên quãng đường đi. Nhưng nhược điểm của nó là bị ảnh hưởng mạnh bởi mầu sắc
của vật thể cũng như độ sẫm, nhạt của nó. Như thế kết quả đo
sáng sẽ không chính xác và ta cần áp dụng thêm hiệu chỉnh kết quả đo sáng (sẽ
đề cập tới sau) Trong các máy SLR, dSLR cao cấp thường có 3 kỹ thuật đo
sáng điển hình:
- Matrix hay Multizone:
đây là kỹ thuật tiên tiến nhất cho phép máy ảnh thao tác đo sáng tại nhiều vùng
khác nhau trên ảnh rồi sau đó so sánh với các trường hợp đo sáng được tính toán
trước và lưu trong bộ nhớ, tiếp theo máy sẽ cho gia một kết quả hoàn chỉnh
nhất. Nến nhớ rằng trước đây TTL Meter chỉ tính giá trị trung bình của toàn ảnh
mà thôi.
- Đo sáng trung tâm: ta
hay thấy phần dành cho đo sáng có ký hiệu hình tròn, chiếm khoảng 75% khuôn
ngắm. Khi thao tác đo sáng thì máy sẽ chỉ tính toán các giá trị được thấy trong
phạm vi giới hạn này mà thôi. Đây là phương pháp đo sáng đặc biệt hiệu quả với
thể loại ảnh chân dung.
- Đo sáng điểm: tuỳ theo
máy mà góc đo sáng "spot" thay đổi trong khoảng từ 1° tới 5°. Đây là
phương pháp được các nhiếp ảnh gia Pro ưa chuộng nhất vì nó cho biết chính xác
độ tương phản của ảnh và cho một khả năng sáng tạo vô cùng.
Cả hai loại thiết bị đo
sáng này đều hoạt động dựa trên chuẩn cổng nghiệp "độ xám trung mình
18%". Hãng Kodak đã chế tạo "Grey Card" phục vụ cho nhu cầu
đo sáng "chuẩn" này. Trong phạm vi bài viết này NTL chỉ muốn đề cập
tới thao tác đo sáng ngoài trời với ánh sáng tự nhiên chứ không phải ánh sáng
nhân tạo, rất chủ động, trong các studio.
Như đã đề cập
tới trong bài viết #1 thì việc phân tích ánh sáng của một khuôn hình đóng vai
trò đặc biệt quan trọng trong sáng tạo. Dựa trên nguyên lý "Zone
System" ta có thể chia độ tương phản của ảnh theo các cấp độ sau:
1. Tương phản yếu: khi
độ chênh sáng giữa vùng sáng nhất/tối nhất nhỏ hơn 4 Ev. Trong trường hợp này
thì sự can thiệp của kỹ thuật buồng tối với phim cổ điển sẽ đem lại cho ta độ
tương phản cần thiết.
2. Độ tương phản trung bình : khi độ chênh sáng này
là 5 Ev. Đây là một trường hợp căn bản và lý tưởng cho các loại ảnh.
3. Độ tương phản cao: khi
độ chênh sáng lớn hơn 6 Ev. Với hoàn cảnh này ta sẽ bị mất chi tiết hoặc trong
vùng ánh sáng cao, hoặc trong vùng ánh sáng thấp tuỳ theo lựa chọn ưu tiên.
Việc xử lý từ thao tác tráng phim cho đến chọn loại giấy phóng ảnh có vai trò
quyết định cho chất lượng ảnh.
Với kỹ thuật số ta hoàn
toàn có thể áp dụng các nguyên tắc này và tiến hành chỉnh sửa thêm ảnh với các
công cụ tin học. Với các cảnh tĩnh thì khi độ chênh sáng quá lớn, giải pháp
hoàn hảo nhất là chụp 2 kiểu ảnh riêng biệt rồi ghép lại với nhau. Bạn nên nhớ
rằng nếu ảnh gốc đã mất chi tiết thì không một phần mềm nào có thể tái tạo lại
được chúng ngoài cách "copy & paste". Một giải pháp nữa có thể áp
dụng là dùng thêm kính lọc ND với hệ số lớn.
Bây giờ ta hãy quay lại
với kỹ thuật đo sáng dùng "TTL Meter" - loại thiết bị phổ biến nhất.
Theo kinh nghiệm của riêng cá nhân mình thì NTL nhận thấy kỹ thuật
"Matrix" hoàn toàn đáng tin cậy với điều kiện ánh sáng không trực
tiếp, ánh sáng tản hay phản xạ. Khi độ chênh sáng cao thì đo sáng trung tâm là
giải pháp linh hoạt nhất đồng thời cho phép ta thao tác rất nhanh. Cuối cùng là
kỹ thuật đo sáng điểm "spot" đặc biệt dàng cho sáng tạo, chỉ có kỹ
thuật này mới cho bạn biết cực kỳ chính xác lượng ánh sáng cần thiết cho tấm
ảnh trong một hoàn cảnh tinh tế về ánh sáng.
Bên cạnh đó ta có thể
dùng "Grey card" để đo sáng khi chụp ảnh phong cảnh chẳng hạn. Bạn
chỉ cần để Grey Card trong cùng một ánh sáng chiếu chung cho cảnh chụp rồi tiến
hành đo sáng trên đó bằng TTL Meter. Giải pháp này tránh được ảnh hưởng của mầu
sắc trên chủ thể nhưng bạn cần làm hiệu chỉnh thêm kết quả đo sáng +1/2 Ev đến
+1 Ev với các cảnh sáng mầu và -1/2 Ev đến -1 Ev với các cảnh sẫm mầu. Ngược
lại, khi bạn đo sáng trực tiếp bằng TTL Meter thì với các ảnh sẫm mầu ta cần
thao tác -Ev và +Ev với các cảnh sáng mầu. Lý do rất đơn giản: máy ảnh nhìn tất
cả theo độ xám 18% nên nó "cho rằng" các cảnh sáng mầu là "thừa
sáng" nên chủ động giảm bớt lượng sáng, ngược lại cho các cảnh sẫm. Nếu ta
lấy vị dụ ảnh chụp than đen cần hiệu chỉnh kết quả đo sáng chừng - 2Ev thì một
cảnh tuyết trắng có thể cần tới +2 Ev. Thao tác hiệu chỉnh kết quả đo sáng này
đặc biệt quan trọng với ảnh macro khi chủ thể mầu
sắc chiếm phần lớn khuôn
hình. Với kinh nghiệm thực tế ta có thể thấy rằng mầu vàng cần +1 1/2 Ev;
mầu tím sẫm hay đỏ sẫm cần -1 1/2 Ev...
Khi bạn gặp một tình
huống ánh sáng quá phức tạp thì thao tác đo sáng trên lòng bàn tay sẽ là một
giải pháp hay. Bạn chỉ việc hướng ống kính vào đó là xem kết quả của cặp
"khẩu độ/tốc độ" nhưng nên nhớ rằng da tay phản xạ ánh sáng nhiều gấp
2 lần độ xám 18% nên ta cần giảm bớt đi -1 Ev để có kết quả đúng.
Trên đây là những nguyên
tắc căn bản nhất mà bạn cần nhớ và thành thạo khi chụp ảnh. Không có một lý
thuyết nào hiệu quả hơn kinh nghiệm thực hành, bạn cần tập luyện và tự rút
ra bài học cho chính mình.
VIII-5, ĐẶT TÊN CHO ẢNH
Đặt tên cho ảnh tựa như làm
khai sinh cho đứa con tinh thần trước khi vào đời giao tiếp với xã hội. Nếu
không có ngoại lệ cái tên ấy sẽ vĩnh viễn gắn với ảnh theo quy trình khép kín:
cuộc sống - tác giả - tác phẩm - người xem - cuộc sống. Nhâm dịp đầu xuân Bính
Tuất, từ những thực tế qua các cuộc thi và triển lãm, xin được tạm tổng
kết những lỗi nên tránh khi đặt tên cho ảnh như một tư liệu tham
khảo:
1.Tham khảo quá nhiều ý
kiến:
Khi đặt tên tác phẩm, có
nhà nhiếp ảnh tham vấn người có vị trí cao trong xã hội hoặc trong lĩnh vực bạn
đang công tác. Có người còn xem việc đặt tên cho ảnh gắn liền với "cái
tôi" nên có thể gây nhiều trắc trở ngầm trong mối quan hệ lâu dài. Để
tránh vấp phải chuyện tế nhị , chỉ nên tham khảo ý kiến của những người
giỏi chuyên môn thật thân thiết, càng cô đọng càng tốt. Và đừng quên giử kèm
một lời cảm ơn chân thành khi ảnh
vào giải hay được chọn triển lãm!
2.Sáo rỗng và khoa
trương:
Đây là bức ảnh chỉ có lỹ
thuật, nội dung bình thường nhưng lại cố áp đặt một triết lý cao siêu. Việc này
tựa như sính dùng chữ quá kêu đặt tên cho một sản phẩm chất lượng kém. Tên
ảnh khoa trương, sáo rỗng dễ gây phản cảm, đôi khi lại được hiểu là thiếu cẩn
trọng!
3.Dài dòng và thiếu
trọng tâm:
Một bức ảnh biểu cảm lập
tức thu hút ngay sự chú ý của mọi người, nên không nhất thiết phải cần dùng
nhiều chữ minh hoạ - ngoại trừ ảnh báo chí cần chú thích hội đủ các thông tin
cần thiết - tên ảnh quá dài dễ làm người xem mệt mỏi, ngại đọc bởi hình tượng
mới là yếu tố quan trọng. Đặt tên cho ảnh quá dài còn cho thấy tác giả chưa
lĩnh hội được tư tưởng chủ đề của hình tượng do chính tay mình chụp!
4.Trùng lắp và thiếu
sinh khí:
Dù vô tình hay cố ý,
việc lấy nhầm cái tên đã thành danh của một bức ảnh khác đều gây ra sự nhàm
chán và làm giảm giá trị của ảnh...
Người xem cảm nhận sự
thiếu đầu tư trí tuệ của chủ nhân bức ảnh. Tựa như một thiếu nữ có
nhan sắc đệp nhưng vì khi xướng danh thì ai cũng phải ngẩn ngơ tiếc thầm
vì tên quá nhạt không xứng với người!
5. Ảnh và tên chỉ là
một:
Anh bạn chụp Hội An vào
ban đêm rồi đặt tên cho ảnh là: "Đêm phố cổ" !. Chữ "đêm" ở
đây là thừa, vì nhìn vào không gian hiện hữu ai cũng đã rõ. Một trong những
nguyên tắc đặt tên cho ảnh là không tìm cách diễn giải những gì người xem đã
thấy. Cố gắng thoát khỏi nghĩa đen của ảh bằng cách đọc vài tác phẩm văn học
hay, vài bài thơ giàu cảm xúc... có thể nhiều ý tưởng mới sẽ đến...
6. Đánh đố người xem:
Đọc xong tên ảnh rồi
nhìn vào hình tượng, suy nghĩ mãi chẳng thấy có mối liên hệ gần - xa nào! Kiểu
như lấy "râu ông nọ cắm cằm bà kia"... Đừng để rủi
ro này xuất hiện bởi sai một ly có thể... đi một dặm.
7. Tối nghĩa và sai
chính tả:
Thật đáng tiếc khi điều
này xảy ra bởi, bởi tự thân tên ảnh trở thành tấm gương phản ánh phần nào thực
chất bản thân. Nếu tự thấy vốn văn học còn kém thì phải cố gắng khắc phục - bởi
nhà nhiếp ảnh không chỉ biết chụp giỏi mà còn biết bảo vệ ý kiến trước đồng
nghiệp và trước người xem. Mỗi khi đặt bút viết hãy tra cứu từ điển cẩn thận,
tránh viết sai ngữ pháp hay lỗi chính tả.
Vậy thế nào là một
cái tên ảnh hay? Mười lăm năm đã trôi qua, tôi vẫn giữ nguyên cảm xúc khi nhớ
đến "Mặt trời của mẹ" của tác giả Vũ Khánh - giải nhất cuộc thi ảnh
Trẻ em Việt Nam và mối quan tâm của chúng ta (1991). Nhà báo Hoàng Nguyên Kỳ đã
khéo mượn ý thơ của Nguyễn Khoa Điềm để đặt tên cho bức ảnh:
Mặt trời của bắp thì nằm
trên đồi
Mặt trời của mẹ, em nằm
trên lưng
khơi gợi cho "màu
đỏ" biểu cảm nơi hình tượng biết bao mối liên tưởng, kỳ vọng ở tương lai
vượt ra ngoài khuôn khổ hạn hẹp của khung giấy. Xét cho cùng, đặt tên cho ảnh
cũng chính là quá trình sáng tạo,góp phần cho sự thành công trọn vẹn của tác
phẩm./.
VIII-6, BÓNG ĐỔ, BÓNG
NGÃ, BÓNG ĐỐI XỨNG, BÓNG KHỐI
1, Bóng đổ (Bóng ngả)
Bóng đổ được hiểu là
bóng của một vật thể, nó chính là bóng đen theo hình dáng, kích thước của vật
thể được nguồn sáng chính (lưu ý là nguồn sáng chính) hắt ra theo hướng
chiếu của nguồn sáng. Trong toán học người ta gọi là "hình chiếu",
thông thường chúng ta chỉ học hình chiếu vuông góc (góc chiếu bằng 90 độ) mà
thôi. Trong khi đó thực tế lại là một số hoàn toàn không biết trước. Bóng
đổ đôi khi cũng được gọi là "Bóng ngả".
Cái hay của "bóng
đổ" là hình dáng của chúng phụ thuộc vào bề mặt nơi bóng xuất hiện,
để đơn giản tôi tạm gọi là "mặt đổ bóng: MĐB.
MĐB càng phẳng (mặt có
thể nằm hoặc đứng (như bức tường)) thì bóng đen càng in rõ lên MĐB, nhưng
nếu MĐB ghồ ghề, lồi lõm (sa mạc, bãi cát chính là nơi lý tưởng) thì bóng sẽ
thành đường uốn khúc, cong keo theo MĐB. Chúng ta hay lưu ý là MĐB không chỉ cố
định mà nó có thể thay đổi như mặt nước lúc gợn sóng, có lúc chúng ta pahỉ
cố tình tạo sự gợn sóng này, cảnh sắc trở nên đẹp và có hồn hơn.
Ngoài ra bóng đổ còn phụ
thuộc vào các yếu tố sau:
- Cường độ ánh sáng và
khoảng cách của nguồn sáng chính: Cường độ càng mạnh, khoảng cách càng gần bóng
càng sẫm, càng sắc cạnh nhưng chi tiết càng kém rõ. Tuy nhiên, lúc đó tương
phản đen trắng càng cao, cảm giác chói trang càng lớn.
Ngược lại bóng càng mờ
nhạt càng cho cảm giác dịu mát.
- Hướng chiếu sáng:
Hướng chiếu sáng càng nằm ngang (nguồn sáng chính là mặt trời thì đó là thời
điểm càng gần mặt trời mọc và lặn), bóng đổ càng dài. Nó sẽ mất khi mà chiếu
chủ thể vuông góc với mặt đổ bóng (chiếu đúng đỉnh đầu)
Bóng đổ thường giúp ích
cho việc tôn thêm vẻ đẹp, ý nghĩa của chủ thể bằng hình dáng và sự tương phản
của nó. Có thể nó cũng chính là đối tượng chụp, để nói lên chủ thể người ta
thường gọi là "chủ thể gián tiếp"
Nhiều nhiếp ảnh gia
(nhất là phương Tây) rất ưu thích lấy bóng đổ làm chủ đề gián tiếp, nhưng
trong thực tế của bất kỳ ai cầm máy, việc loại bỏ bóng đổ cũng không kém
phần quan trọng . Các bác nào rình hoa quỳnh nở chắc biết rồi, ngoài nguồn sáng
chính chúng ta phải dùng các nguồn sáng phụ chiếu vào bóng để loại bỏ bóng đổ.
Thông thường cách để
loại bỏ bóng đổ là :
- Dùng nguồn sáng mạnh
chiếu vào bóng để xoá đi.
- Chọn vị trí để đẩy lùi
hậu cảnh vào bóng tối
- Hậu cảnh xa chủ thể
cũng làm cho bóng đổ không rõ nét
2. Bóng đối xứng
Chính là kết quả của
hiện tượng phản xa ánh sáng xảy ra trong thiên nhiên - còn được gọi là bóng
chiếu hay bóng nước.
Điều kiện để vật thể có
bóng chiếu hoàn toàn đối xứng là: mặt nước phải thật phẳng, thật lặng sóng và
phản xạ nhiều ánh sáng . Chỉ có gương soi mới thỏa mản được các điều kiện
đó, còn mặt nước, mặt sàn, mặt đường... phản xạ yếu hơn nên chỉ đảm bảo sự đối
xứng về hình chứ không phả ảnh đúng sắc độ và độ rõ nét của vật. Bóng
chiếu lúc này nhìn chung là kém sáng và kém rõ so với vật thực. Gặp trường hợp
mặt nước bị xao động, chu vi của bóng chiếu bị dao động theo sẽ biến thành
những đường sóng lượn lăn tăn kéo dài làm hình dạng của bóng chiếu sẽ bi méo
mó, phá vỡ quan hệ đối xứng giữa bóng và vật, dẫn đến hậu quả bị xóa đi một
phần hay toàn phần.
Khi mặt nước gợn lăn tăn
quá nhiều hoặc có sóng to thì không còn làmặt gương phẳng và bóng nước cũng
không xuất hiện.
Ở hình 1, khi mặt nước
phẳng lặng thì tia sáng phát ra từ A chỉ phản xạ tới mắt chỉ một điểm, và cho
thấy một ảnh đôc nhất là A'.
Lúc mặt nước hơi dao
động, mỗi gợn sóng như được hợp thành bởi nhiều mặt gương nghiêng cho thấy
nhiều ảnh của A cao hơn hay thấp hơn A' và kết thành một chuỗi lung linh theo
phương thẳng đứng.
Muốn chụp buổi chiều đối
xứng cho đẹp và sinh động, người chụp cần chú ý:
- Vị trí quan sát và đặt
máy bao giờ cũng cao hơn mặt nước.
- Điều thú vị là có
những chi tiết ta nhìn thấy ở vật nhưng không thấy ở ảnh, trái lại
qua ảnh ta lại thấy những phần khuất của vật soi bóng.
Ở hình 2, chiếc nón úp
trên cọc ở giữa ao cho thấy bóng là một chiếc nón ngửa, làm hiện rõ các vành
nón, lúc đó nhìn từ trên cao là những chi tiết bị che khuất
Sự sai lệch giữa ảnh và
vật càng rõ rệt hơn nếu vị trí quan sát càng cao và càng gần đối tượng. Điểm
nhìn cao làm tăng khoảng cách giữa mặt nước và mặt phẳng tầm mắt khiến các hình
đối xứng có chiều hướng biến dạng. Điểm nhìn gần làm tăng kích thước góc của
vật, nếu gộp cả thêm bóng phía dưới thì kích thướt góc càng lớn.
Sử dụng kính phân cực
(Polarize filter) chỉnh giữa trục ngấm với mặt phẳng chứa đối tượng một góc gần
bằng 37 độ khủ bớt những ánh phản chiếu khó chịu đồng thời làm màu xanh lam của
bầu trời sẫm thêm mà không làm hỏng các màu khác.
Nhìn theo quan điểm tạo
hình thì bóng phản chiếu dù ở trạng thái tĩnh hay động đều góp phần làm duyên
cho cảnh vật. Bên hồ nước, khung cảnh trong bức ảnh như được nhân đôi,
không gian như được cao hơn, rộng thêm và giàu yếu tố biểu cảm hơn. Trên
mặt bằng kiến trúc cổ Việt Nam hầu như các ngôi đình, chùa luôn được xây
dựng kèm một hồ nước nhỏ có thả bèo, trồng sen chủ yếu tạo thêm bóng thấp
thoáng của công trình, vừa làm tăng vẻ bề thế, vừa giàu chất thơ. Trong
nhiếp ảnh, những thể loại phong cảnh, kiến trúc... có kèm theo bóng nước đối
xứng biểu hiện khá rõ trạng thái không gian và cảm xúc: ở dạng tĩnh ảnh gợi sự
êm ả, thanh bình, ở dạng động ảnh khơi gợi sự xao xuyến, buâng khuâng tựa như những
làn gió thầm thì đánh thức nơi người thưởng ngoạn lòng yêu quý và ý thức gìn
giữ vẻ đẹp của thiên nhiên.
Tác giả: Lê Xuân Thăng
3. Bóng đen (Bóng khối)
Như các bạn đã biết
Nguồn chiếu sáng không chỉ tạo ra bóng đổ, hay tạo ra ánh sáng phản chiếu từ
chính bề mặt của vật thể và đó được coi là nguồn sáng thứ hai. Ngoài ra
chúng ta còn có thể chụp thể loại ảnh "Bóng đen" hay còn được gọi
bóng khối hoặc bóng bản thân nữa.
Khi nguồn sáng chính
chiếu vào chủ thể nó chia chủ thể thành hai vùng rõ rệt. Vùng hướng về nguồn
sáng được gòi là vùng sáng, phần không được chiếu sáng chính là bóng đen hay
bóng khối. Điều này dễ hiểu nhất khi quan sát mặt trăng, nhưng khi trăng khuyết
chính là chúng ta thấy cả hai vùng: Vùng sáng và bóng đen.
Những bức ảnh này thường
chụp chủ thể mà hậu cảnh là bình minh hoặc hoàng hôn.. Đây là kỹ thuật sử dụng
ánh sáng ngược (back lighting): Ánh sáng chiếu từ sau lưng chủ đề đến ống
kính .
Ánh sáng này cần nhiều
kinh nghiệm về khẩu độ và tốc độ, nếu chủ đề là chân dung thì ánh
sáng trên mặt rất dịu , tóc có viền sáng , mặt mày không nhăn nhó như lúc
được chụp bằng ánh sáng phẳng .
VIII-7, TONE MÀU ?
Loay hoay: bác NTL có
thể nói thêm về cách "làm chủ" màu sắc hay tone màu được ko ? có
điểm gì tương đồng và khác biệt trong cách "nhìn" màu giữa nhiếp ảnh
và hội hoạ ?
(cám ơn bác về bài
viết...rất bổ ích )
Câu hỏi của bác loayhoay
vô cùng quan trọng, hấp dẫn và...rất xương để có thể trả lời cặn kẽ!
NTL sẽ cố làm sáng tỏ
vấn đề bằng những kiến thức ít ỏi của mình, mong được các bạn giúp đỡ thêm
nếu có gì thiếu sót.
Như mình đã nói
trong bài post trước đó, sự khác biệt căn bản giữa Hội hoạ và Nhiếp ảnh nằm
trong chỗ sự sáng tạo của Hội hoạ hoàn toàn tự do và nằm trong ý niệm của hoạ
sĩ còn nghệ sĩ nhiếp ảnh chỉ có thể tái tạo lại những gì đã tồn tại theo một
cách nhìn nghệ thuật,
bằng các phương tiện kỹ
thuật có thể mà thôi. Điều này dẫn đến câu trả lời thứ nhất: Hoạ sĩ có thể làm
chủ mầu sắc mà anh ta muốn sáng tạo nên, anh ta có một gu nhất định về mầu
sắc và số lượng tông màu không giới hạn. Trong nhiếp ảnh thì mầu sắc đã tồn tại
trước khi ta bấm máy. Những gì ta có thể ghi lại trên phim (kiểu cổ điển hay kỹ
thuật số) chỉ là những mảnh vụn tách ra từ tổng hoà mầu sắc của tự nhiên mà
thôi. Bằng cách này hay cách khác mà mỗi nhiếp ảnh gia có thể tái tạo lại mầu
sắc tự nhiên theo cách nhìn của mình. Số lượng màu sắc là vô hạn trong thiên
nhiên nhưng nhiếp ảnh không thể trộn chúng lại và tạo thành những gam mầu mới
như hội hoạ được.
Thế nhưng bên cạnh
đó cách nhìn nhận đánh giá mầu sắc của cả hai bên lại có những điểm chung. Đó
là sự sáng tạo trong tâm hồn người nghệ sĩ giúp anh ta có những cái nhìn xuyên
qua vật thể, tách lớp mầu sắc để tìm ra những điều mà chúng ta nhất thời chưa
nhận ra.
Khi ta nói rằng một tấm
ảnh đẹp như một bức tranh thì đó gần như là một lời khen ngợi. Trong
trường hợp ngược lại thì giống như một lời chê trách. Hội hoạ là siêu hình
và mầu sắc của nó cũng siêu thực trong một chừng mực nào đó. Nhiếp ảnh không
thể là siêu thực nhưng mầu sắc của nó cũng có thể đạt tới độ siêu thực
trong một số điều kiện nhất định.
Trong kỹ thuật nhiếp
ảnh, khi ánh sáng trắng đi qua các lớp lọc mầu Cyan - Magenta - Yellow với phim
cổ điển hay Red - Green - Blue với kỹ thuật số thì mỗi một lớp lọc ấy giữ lại
một lượng mầu nhất định của một mầu đơn sắc. Vì các lớp lọc là "trong
suốt" nên ta có thể nhìn thấy tất cả các mầu cùng một lúc và tuỳ theo tỉ
lệ mầu phân bố tại một điểm nhất định mà ta sẽ có muôn vạn mầu sắc khác nhau.
Về nguyên tắc đây là sự trộn mầu mang tính loại bỏ dần của ánh sáng.
Trong hội hoạ cũng tồn
tại kiểu phối mầu loại bỏ nhưng lại theo một kiểu khác. Mầu sắc trong hội hoạ
chia làm hai thể loại. Loại mầu "đặc" như sơn dầu, acrrylic, sơn
nước chỉ có thể hoà trộn với nhau khi còn ướt và thường hay được pha thêm mầu
đen hay trắng để tạo cảm giác tối hơn hay sáng hơn. loại mầu "trong suốt"
như mầu nước, mực tầu...thì lại có thể hoà trộn với nhau khi uớt, khi đã
khô, hoặc là vẽ đè lớp sau lên lớp trước. Những loại mầu này thường được làm
sẫm hơn bởi mầu đen và như mầu nước có thể được làm loãng ra bằng nước.
Đặc tính của thể loại mầu "trong suốt" là chúng có thể hấp thu một số
mầu khác và như thế kết quả mà mắt người có thể nhìn thấy là những
mầu không bị hấp thụ.
Không có ranh giới rõ
ràng trong sáng tạo nghệ thuật. Người hoạ sĩ "nhìn" mầu bằng cảm xúc
và tái tạo lại nó, hay nói đúng hơn là sáng tạo lại cũng bằng cảm xúc của
chính mình mmột cách độc đáo. Như thế một ngày trời nắng có thể mang
mầu đỏ khát khao...Người nghệ sĩ nhiếp ảnh bấm máy bằng cảm xúc và tâm hồn mình
nhưng anh ta chỉ có thể ghi lại những cảm xúc ấy nguyên vẹn trên phim ảnh mà
không thể áp đặt ý muôn chủ quan của mình trong sáng tạo.
Như thế thiết
tưởng có thể tóm gọn lại bằng mấy từ:
Hội hoạ: tưởng tượng ra
mầu sắc.
Nhiếp ảnh: lựa chọn mầu
sắc.
Một số từ chuyên ngành
SLR: chữ viết tắt của Single Lens Reflex mà ở
Việt nam nó được biết đến với tên gọi phổ thông là "Máy ảnh Cơ" dùng
để chụp phim với ống kính có thể thay đổi được.
dCam: thuật ngữ mới được sử dụng gần đây trong
các tạp chí nhiếp ảnh nhằm chỉ định loại máy "Digital Compact Camera"
sử dụng kỹ thuật số để ghi hình ảnh thay cho phim thông thường. Ta có thể hiểu
dCam tương đương với "Compact" của máy chụp phim.
BCam: tên viết tắt của "Bridge Digital
Camera" do cấu tạo của ống kính zoom dài có hình dáng giống như một
chiếc "cầu" nhỏ vậy. Đây là dòng máy ảnh kỹ thuật số cao cấp hơn dòng
dCam nhờ vào cấu tạo của ống kính gần với máy ảnh cơ SLR.
dSLR: tên viết tắt của "Digital Single Lens
Reflex" hay còn gọi là "Máy ảnh cơ kỹ thuật số". Dòng máy
ảnh này sử dụng những kỹ thuật cơ học tương đương với máy ảnh cơ SLR điểm
duy nhất khác biệt là hệ thống xử lý hình ảnh số rất phức tạp thay thế cho
phim cổ điển.
Lưu ý :
Hoá ra chữ B là "
cái cầu " đấy ! , Bây giờ mấy thằng như Sony T7 hay Casio EX Z750 (
theo định nghĩa là D cam ) nhưng nhấn zoom một cái nó cũng thò ra cái ống kính
dài như cái "cầu" cho nên phân biệt kiểu này e không ổn .
Cứ gọi là 3 dòng digital
:
1- Cỡ nhỏ( T7 , EZ 40 ,
55, 750 ..)
2- Cỡ trung ( Nikon
coolpix 5400 , 5800 )
3- Cỡ lớn ( DSLR ) như Canon
20D , Nikon D70S , Fuji S3 Pro
VIII-8, CHẾ ĐỘ CHỤP
1. Sự khác biệt giữa các
chế độ chụp M, S, A là gì?
Em xin trả lời như sau
:
- M (Manual) có nghĩa là
khi chụp ở chế độ này thì người chụp ảnh tự chọn cả tốc độ màn trập lẫn
khẩu độ
- A (Aperture Priority)
: Người chụ tự chọn khẩu độ còn máy sẽ chọn tốc độ màn trập
- S (Shutter Priority) :
Người chụp chọn tốc độ màn trập còn máy chọn khẩu độ.
Em nói như vậy có
đúng không anh. Tuy nhiên chụp ở chế độ nào cho phù hợp nhất là phụ thuộc
vào chủ đề và kinh nghiệm của người chụp. Thường thì khi chụp các vật
chuyển động thì đặt vào S còn phong cảnh thì đặt vào A ????
Bạn trả lởi hoàn toàn
chính xác. Thông thường nếu cầm máy một thời gian thì tôi thấy ít người chụp
chế độ S, chủ yếu M và A.
Trích dẫn:
2. Em đã học upload ảnh
lên forum bằng cách đăng ký 1 account trên http://s67.photobucket.com và upload
1 vài ảnh em mới chụp. Anh xem rồi comment giúp em nhé. Đây là ảnh bé con nhà em
mới chụp ngày hôm qua.
Thông số chụp :
Thông số chụp :
Camera : Nikon D100
Shutter : 1/20
Aperture : F5.6
Exposure : Aperture
Exp. +/- : +0.7
Focal Length : 110mm
ISO : 200
White Bal : Auto
Thằng cu nhà bác trông
kháu nhỉ. Tôi thấy bác định sáng vậy là ổn. Có cái má va cổ (và 1 ngón tay cái)
bị lốp sáng một chút nhưng cái này là do chiều ánh sáng tạo nên tương phản
cao thôi, bác thử tập Photoshop để sửa lại một chút chi tiết này xem sao.
Trích dẫn:
Thông số chụp:
Camera : Nikon D100
Shutter : 1/15
Aperture : F3.6
Exposure : manual
Exp. +/- : +0.0
Focal Length : 24mm
ISO : 200
White Bal : Auto
Cái này tôi thấy định
sáng chuẩn, tôi không thấy có gì phải nhận xét cả.
VIII-9, LẤY NÉT, CHẾ ĐỘ
MÀU
1. Căn nét tự động (AF)
: Em đặt chế độ này để căn nét vào cái tủ bên dưới bức tường và chiếc đèn
phía trên thì được nhưng khi căn nét vào chính gữa bức tường thi ống kính cứ
chạy đi chạy lại không thể nào mà căn nét được (chú ý : bức tường màu xanh
nhạt).
Bác diễn tả thế này
hơi chung chung. Vì canh AF nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhất là điều kiện
ánh sáng. Nếu ánh sáng yếu và tương phản thấp thì cái máy nó bị
"trượt pa tanh" là thường thôi. Nhiều trường hợp bác vẫn phải buộc
canh nét bằng tay vì AF không hoạt động được.
Trích dẫn:
2. Trong AF - area mode
: có 2 cách đó là Single Area AF và Center Focus Area. Luc nào thì dùng 1 trong
hai cách đó ?
Cái này phải chờ bác NTL
thôi, tớ không biết mấy cái này.
Trích dẫn:
3. Mettering : 3D,
Center và Spot : Các anh chi cho em biết cách dùng của 3 phương pháp này nhé.
3D là kiểu đo matrix cải
tiến. Thông thường nếu không phải trong một số trường hợp đặc biệt (như ngược
sáng nghiêm trọng chẳng hạn) thì cách đo matrix của Nikon có tiếng là vô cùng
tốt. Theo tớ, ban đầu dùng matrix để cho tiện, cũng để làm quen với máy và dành
thời gian tập trung tìm hiểu những cái khác. Sau này khi bạn muốn tìm hiểu sâu
thì nghiên cứu dùng spot. Cái center weight nếu đã có spot thì có thể bỏ qua.
Trích dẫn:
4. Color Mode : Mình sẽ
đặt ở chế độ nào thì tốt trong 3 modes đó là I sRGB, II AdobeRGB và III
sRGB. Hiện tại em dang đặt ở chế độ II AdobeRGB.
Sao cái số 1 và 3 lại
giống nhau nhỉ ? Thực ra vấn đề này cũng phức tạp nếu bạn tìm hiểu sâu.
Cái này gọi là các không gian màu sắc.
Nói nôm na thì AdobeRGB
có nhiều màu hơn Adobe sRGB. Adobe RGB là không gian gần với không gian dùng
trong in ấn (máy in ảnh) còn Adobe sRGB là chuẩn của Internet (xem ảnh trên
web). Tuy nhiên, sự khác biệt bằng mắt thường không cao lắm đâu, nếu bạn không
thực sự yêu cầu cao (kiểu như làm đồ họa) thì thực ra bạn dùng cái nào
cũng được. Nếu bạn thực sự quan tâm thì bạn còn phải chú ý khi dùng các phần
mềm để chỉnh sửa ảnh cũng như khi in ấn nữa.
2. Trong AF - area mode
: có 2 cách đó là Single Area AF và Center Focus Area. Luc nào thì dùng 1 trong
hai cách đó ?
Trả lời: trong tài liệu
hướng dẫn sử dụng của Nikon D100 có xếp loại các mode canh nét như sau:
Focus Mode:
- S: Single-servo AF
(dùng cho các chủ thể tĩnh nói chung)
- C: Continuousservo AF
(dùng cho các chủ thể động)
- M: Manual (dùng trong
trường hợp ánh sáng yếu, thiếu độ tương phản để có thể dùng AF)
AF-Area Mode:
- Single-area AF: máy
ảnh sẽ canh nét vào điểm AF mà em lựa chọn
- Dynamic-area AF: máy
ảnh sẽ chủ động thay đổi điểm AF tuỳ theo chuyển động của chủ thể
Trong phần này em sẽ đọc
thấy "Predictive Focus Tracking" đây là kỹ thuật cho phép máy ảnh
D100 "đoán trước" được sự chuyển động của chủ thể và bám điểm canh
nét vào đó.
Closest Subject Priority
(Dynamic Area AF): với chế độ này máy ảnh sẽ hoàn toàn nắm quyền chủ động
trọng việc canh nét vào chủ thể gần máy ảnh nhất. Thông thường em nên chọn
"Single-area AF" với chế độ này.
Tại trang 68 của sách
hướng dẫn, em sẽ tìm thấy một bảng hướng dẫn rất cụ thể "Summary of
Autofocus Options".
Như thế câu
hỏi của em chưa thật sự "hỏi" vì "Center Focus Area" là
thuật ngữ ám chỉ điểm canh nét trung tâm trong số 5 điểm canh nét của D100 mà
thôi. Em có thể xem lại "Focus Area Selection" ở trang 64.
3. Mettering : 3D,
Center và Spot : Các anh chi cho em biết cách dùng của 3 phương pháp này nhé.
Trả lời: NTL bổ sung
thêm ý của bác A.E: đo sáng trung tâm "Center" cho phép lấy kết quả
"trung bình" của vùng ảnh nằm trong vòng tròn đo sáng trung tâm tuỳ
theo lựa chọn của người chụp. Nó cho kết quả ít "chính xác" hơn
"Spot" nhưng cũng đỡ nguy hiểm hơn vì Spot đòi hỏi kinh nghiệm
rất cao.
4. Color Mode : Mình sẽ
đặt ở chế độ nào thì tốt trong 3 modes đó là I sRGB, II AdobeRGB và III
sRGB. Hiện tại em dang đặt ở chế độ II AdobeRGB.
Trả lời: tại trang 60 em
có thể tìm thấy các thông tin cần thiết sau:
- I (sRGB) (default):
dùng cho thể loại ảnh chân dung được in ra trực tiếp sau khi chụp không qua
chỉnh sửa
- II (Adobe RGB): có gam
mầu "gamut" rộng nhất, dùng cho ảnh sẽ được chỉnh sửa trước khi in
- III (sRGB): dùng cho
ảnh phong cảnh in ra trực tiếp sau khi chụp
Nói chung
"sRGB" thường dùng cho ảnh thông dụng, "Adobe RGB" dùng cho
ảnh nghệ thuật hay ảnh có đòi hỏi chất lượng cao.
Alter_Ego viết: Sao cái
số 1 và 3 lại giống nhau nhỉ ? --> Sự khác nhau của hai sRGB này nằm trong
độ tương phản của ảnh: ảnh chân dung có độ tương phản nhẹ, ảnh phong cảnh có độ tương phản cao và mầu sắc rực rỡ hơn
VIII-10, AEB
Mình đang trong thời
gian nghiên cứu để biết các tính năng của máy ảnh, có một tính năng mình chưa
hiểu lắm và chưa biết sử dụng thế nào mong các bạn giải thích giùm. Đó là
tính năng AEB, theo mình hiểu nôm na là mình có thể cài đặt một khoảng đo
sáng để máy ảnh có thể
tự động điểu chỉnh độ sáng thích hợp nhất trong khoảng đó, không biết có đúng
không ạ?
Mình biết yếu tố đo sáng
rất quan trọng trong khi chụp ảnh, không biết tính năng này có giúp nhưng người
mới chụp đo sáng tốt hơn không? có nên dùng tính năng này không? và dùng như thế nào
? Các bạn giúp mình nhé... mình đang dùng máy Canon 350D
Chào bạn,
Auto Exposure Bracketing
(AEB) chắc là chức năng tự động hiệu chỉnh kết quả đo sáng theo điều kiện thực
tế với giới hạn mà bạn có thể thiết định?
Mình không dùng 350D nên
không biết rõ lắm, bạn có thể post lại nguyên văn tiếng Anh phần AEB trong
Manual không? ( Bạn nào đang dùng 350D trả lời hộ nhé )
Nếu bạn tập đo sáng thì
nên loại bỏ các chế độ hỗ trợ tự động vì như thế mới biết chính
xác các thao tac cần thiết và rút ra được những kinh nghiệm bổ ích.
Nếu bạn mới tập chụp ảnh
thì có thể dùng các chức năng đo sáng tự động để tập trung vào khuôn hình chẳng
hạn.
Thank NTL, mình thấy máy
Nikon 8700 có chức năng goi là best shoot thì fải, với chức năng này khi chụp
mình giữ nút chụp lâu lâu một chút thì máy tự động chụp vài kiểu liên tục rồi
máy tự chọn cho mình 1 kiểu với ánh sáng tốt nhất, vì vậy mình mới tìm hiểu
chức năng AEB của Canon xem có giống thế không. Hôm nay mình cũng vừa mò
ra là với chức năng AEB mình fải chụp với chế độ continues thì máy chụp
liên tục 3 tấm với độ sáng ứng với 3 vạch trên thước đo sáng ( 2 vạch là giới
hạn khoảng đo sáng do minh thiết lập, vạch còn lại nằm chính giữa 2 vạch kia,
cũng là do mình thiết lập nốt), chứ máy chẳng Auto gi cả. Mình hơi thất vọng về chức
năng này, mình pot trang nói về AEB lên bạn xem hộ mình nhé, chẳng nhẽ
Canon làm ra một chức năng mà không biết dùng làm gi và vào lúc nào
http://i113.photobucket.com/albums/n226/Tonkin12/IMG_3811.jpg
Dù thế nào đi nữa
thì cũng fải làm mấy vại cái đã Trước hết bạn có thể để mấy cái link trong dòng
lệnh "image ... /image" để hiển thị ảnh trực tiếp.
Khái niệm bracketing nằm
thuộc về thời kỳ chụp phim, nhất là phim dương bản. Về cơ bản
thế này : trước một khuôn hình định chụp, bạn chọn một cách định sáng
nhưng không chắc chắn lắm với sự lựa chọn của mình mà tự nhủ : " có thể
thừa hay thiếu 1 khẩu độ gì đây".
Khi đó cái điều tự nhiên
nhất mà bạn sẽ làm là chụp "sandwich" : một bức với định sáng
"mốc", một bức thừa sáng (so với "mốc") 1 khẩu độ và cuối
cùng là một bức thiếu sáng 1 khẩu độ. Cách chụp "sandwich" này gọi là
"bracketing" (+-1 khẩu độ). Nếu bạn chụp bằng máy ký thuật số, với
các chủ đề "tĩnh" thì có thời gian kiểm tra lại định sáng ngay
thì phương pháp này sẽ có sự tiện ích rất hạn chế
Canon PowerShot S400
Shooting Mode: Manual
Photo Effect Mode: Off
Tv( Shutter Speed ):
1/1600
Av( Aperture Value ):
7.1
Metering Mode: Spot
Exposure Compensation:
-2
ISO Speed: 50
Focal Length: 7.4 mm
Image Size: 1600x1200
Image Quality: Superfine
White Balance: Daylight
AF Mode: Single AF
AF Range Mode: Landscape
File Size: 779KB
----------------------------------------------------------------------
IX, KINH NGHIỆM CHỤP ẢNH
IX-1, CHỤP CẢNH HOÀNG HÔN
Không phải lúc nào ra phố bạn cũng mang theo chiếc máy ảnh dSLR cồng kềnh và bất tiện nếu như mục đích của bạn chỉ là một chuyến dạo chơi ngắn. Trong trường hợp như thế này thì một chiếc dCam sẽ là trợ thủ đắc lực giúp bạn không bỏ
lỡ những cảnh đẹp vô tình bắt gặp.
Ta đã nói khá nhiều về các phương tiện ít nhiều cao cấp và chuyên nghiệp, NTL muốn cùng bạn đi tìm những bức ảnh đẹp
chỉ bằng các máy dCam phổ thông loại Point&Shoot"
mà thôi. Chủ đề của ngày hôm nay sẽ là cảnh
hoàng hôn trên sông. Có lẽ không ít lần bạn đã tự thắc mắc tại sao cảnh mặt trời
lặn đẹp như thế mà khi vào ảnh lại rất...nhạt
nhẽo và sáng trưng? Câu trả lời nằm trong cách bạn chọn
điểm đo sáng đấy. Không có gì phức tạp cả, NTL xin được cùng bạn xem xét ví dụ
dưới đây.
Địa điểm: Pont des Arts, sông Seine ở Paris
Máy ảnh: Canon S400.
Thời gian: khoảng 21h30
Tấm ảnh trên đây được chụp với cách mà có lẽ nhiều bạn vẫn hay áp dụng nghĩa là khuôn hình tự nhiên rồi bấm máy. Điều đầu tiên có thể nhận thấy ngay là con tầu và dòng không được đo sáng khá chính xác nhưng bầu trời lại bị thừa sáng và không có chi tiết. Thông số kỹ thuật:
Tấm ảnh trên đây được chụp với cách mà có lẽ nhiều bạn vẫn hay áp dụng nghĩa là khuôn hình tự nhiên rồi bấm máy. Điều đầu tiên có thể nhận thấy ngay là con tầu và dòng không được đo sáng khá chính xác nhưng bầu trời lại bị thừa sáng và không có chi tiết. Thông số kỹ thuật:
Tv( Shutter Speed ): 1/60
Av( Aperture Value ): 2.8
Exposure Compensation: 0
Trong tấm ảnh thứ hai này có lẽ điều làm bạn ngạc nhiên nhất là ở bầu trời có ánh sáng rất đẹp và nhiều chi tiết. Vậy chìa khoá của thành công nằm ở đâu? Bạn hãy xem các thông số kỹ
thuật dưới đây:
Tv( Shutter Speed ): 1/250
Av( Aperture Value ): 7.1
Exposure Compensation: -1
Bây giờ bạn hãy xem lại trên chiếc máy ảnh của mình nhé, trong chức năng đo sáng "Light Metering
Method" hẳn bạn có thể tìm thấy các thuật ngữ sau: "Evaluative/
Center-weighted average/ Spot" tương đương với tiếng Việt là Đo sáng phức hợp/đo sáng Trung tâm/đo sáng Điểm. Có một số
máy chỉ áp dụng hai loại kỹ thuật đầu tiên mà không có chế độ "Spot".
Trong tấm ảnh thứ 1, NTL đã áp dụng chế độ đo sáng trung tâm vào con tầu và một phần
của toà nhà phía sau. Máy ảnh dCam tính toán chỉ số Ev bằng kết quả của ánh sáng trong một vòng tròn nhỏ giữa
trung tâm của khuôn ngắm. Kích thước của vòng tròn này có khác biệt giữa các loại
máy dCam. Bằng mắt thường bạn cũng có thể dễ dàng nhận thấy bầu trời hoàng hôn sáng hơn rất nhiều so với con tầu và dòng sông. Lúc này có một câu hỏi rất quan trọng: bạn
muốn thể hiện điều g・trong bức ảnh? Nếu là con tầu thì bạn đã
chọn cách đo sáng đúng (NTL sẽ nói đến cách hiệu chỉnh ánh sáng sau nhé). Lời khuyên bổ ích: để tránh bầu trời
trắng xoá, không có chi tiết xuất
hiện trong ảnh một cách rất vô duyên thì bạn có thể chúc máy ảnh xuống, tìm một
yếu tố hấp dẫn làm tiền cảnh như một khóm hoa, bụi cây, người đi dạo...như thế tấm ảnh của bạn sẽ rất cân bằng.
Trong tấm ảnh thứ hai chắc bạn cũng đã thấy rõ chủ đề của nó là cảnh hoàng hôn trên sông rồi. Vẫn
dùng kỹ thuật đo sáng trung tâm (sẽ là chính xác hơn nếu bạn có khả năng do sáng Spot) nhưng lần này NTL hướng điểm đo sáng vào phía những
đám mây xám trên bầu trời xa. Ánh sáng mạnh khiến cho máy ảnh đặt ở ISO 50 tự động khép sâu
khâu độ ống kính hay nói đơn giản hơn là mạch cảm quang điện tử tự
động nhận ít ánh sáng hơn. Như thế dòng sông và toà nhà sẽ trở nên tối do thiếu sáng. Hiệu quả mà ta đạt được ở đây là đường
nét nổi bật của các khối nhà ven sông và độ tương phản mạnh của ánh mặt trời trên mặt nước sông. Một
cảm giác hoàng hôn thật sự. Thế nhưng do phương pháp đo sáng trung tâm
áp dụng trên một diện vẫn còn
rộng nên độ tương phản chưa được như ý muốn hay nói một cách khác là mầu đen chưa thật đen nên NTL đã hiệu chỉnh ánh sáng bằng chế độ "Exposure Compensation" -1Ev như bạn đã thấy trong thông số kỹ thuật. Trong trường
hợp này nếu bạn dùng đo sáng điểm
Spot thì có thể đo sáng vào một vùng ánh sáng mạnh gần mặt trời (bạn nên tránh
nhìn thẳng vào mặt trời dù qua khuôn ngắm của máy ảnh nhé, rất có hại cho mắt)
và kết quả sẽ tương đương.
Tv( Shutter Speed ): 1/160
Av( Aperture Value ): 13
Metering Mode: Center-weighted averaging
Exposure Compensation: 0
ISO Speed: 50
Focal Length: 22.2 mm
Tấm ảnh trên đây NTL không dùng kỹ thuật hiệu chỉnh ánh sáng mà chỉ chọn
vùng đo sáng mà thôi. Ảnh "mỳ ăn liền đấy"!
Vậy nguyên tắc chung của việc chụp ảnh hoàng hôn bằng máy dCam là:
- Dùng chế độ đo sáng trung tâm (đo
sáng điểm là chính xác nhất, nếu
có)
- Tránh đo sáng vào vùng ánh sáng thấp (bạn sẽ bị mất chi tiết trong vùng ánh sáng cao như bầu trời chẳng hạn) và ngay cả vùng ánh sáng
quá cao (bạn sẽ không còn thấy rõ các chi tiết ở tiền cảnh nữa)
- Chọn vùng ánh sáng cao trung bình để đo sáng, hiệu chỉnh thêm từ -1Ev
đến -2Ev theo kết quả thử nghiệm.
- Đặt chế độ cân bằng trắng
"White Balance" ở "Cloudy" để tăng thêm độ bão hoà mầu sắc
cho ảnh. Bạn cũng hoàn toàn có thể dùng chế độ hiệu quả mầu "Vivid"...
Chúc thành công và đợi ảnh chụp của các bạn nhé.
IX-2, CỠ ẢNH, KỸ THUẬT CHỤP ĐÊM
Chiếc Nikon 5700 của bạn cho
kích thước ảnh lớn nhất là 2,560 x 1,920 pixels tức là bạn có thể in ảnh ra giấy
đẹp ở khổ 25x20cm với độ phân giải 267ppp (đây là độ phân giải cần thiết để có chất lượng ảnh đẹp)
Tất nhiên là bạn có thể phóng ảnh ở cỡ lớn hơn như khổ A3 chẳng hạn (29,7x42cm) và để có thể đạt được
kích thước cũng như độ phân giải cần thiết bạn có thể dùng PS CS để đặt lại các thông số
này.
"Bạn cũng cần biết
thêm là không có một câu trả lời chính xác cho câu hỏi với cỡ ảnh nào thì ta có
thể in ảnh ra ở một kích thước nhất định đâu nhé. Kỹ thuật in ấn khá phức tạp đấy.
Chẳng hạn như để phục vụ cho mục đích quảng
cáo thì các công ty xử lý ảnh làm việc với các hình ảnh khoảng 7000x5000 pixels
rồi cung cấp cho khách hàng kết quả
chung cuộc trên phim 20x25cm. Từ ảnh gốc người ta tiến hành xử lý tuỳ theo mục đích sử dụng như để in 1/4 trang báo hay làm tám áp-phích cho một
bến đỗ xe. Để có thể in
hình kín hai trang của một quyển tạp chí thì trọng lượng của một tấm ảnh sẽ là
60 Mo với RVB và 80 Mo với CMJN."*
Quay trở lại với câu hỏi về RAW và JPEG, cho dù bạn sử dụng cấu trúc nào đi chăng nữa thì kích thước
tối đa của 5Mpix là giống nhau do đó ảnh có cấu trúc Tiff không thể phóng to hơn ảnh JPEG cùng chụp ở 5Mpix. Điểm duy nhất khác
biệt là các chi tiết của ảnh chụp từ RAW rồi
đổi sang TIFF hoặc JPEG để in có chất lượng cao hơn mà thôi.
1. Chụp trong nhà bằng máy dCam? Nếu đúng là như thế, cũng như chúng mình giới hạn trong phạm vi của Digital Compact Cam,
thì việc lựa chọn ISO cao không phải là một giải pháp thông dụng bởi vì đa phần
các thể loại máy dCam này cho chất lượng ảnh rất kém ở 400 ISO, đấy là chưa nói đến 800 ISO hoặc cao hơn. Ví dụ như máy Canon G5. Lẽ dĩ nhiên là bạn hoàn toàn có thể "tông
"ảnh bằng các phần mềm chuyên dụng nhưng chất lượng không bao giờ được như ý. Giải pháp tốt nhất cho chụp ảnh ban đêm có dùng
đèn flash của máy dCam là sử dụng chân máy và chụp ở tốc độ chậm hay chọn chế độ chụp ảnh ban đêm (thường có biểu tượng
hình người và một ngôi sao). Đèn flash sẽ mang lại cho bạn những màu sắc đúng của
chủ thể còn tốc độ chậm sẽ giúp bạn lấy được toàn cảnh xung quanh.
2. Kích thước ảnh in trong các MiniLab. Nếu mình không nhầm thì bạn sẽ có các khổ ảnh in ra tương đương với tỉ lệ của khổ phim âm bản gốc là 3:2 (36x24
làm tròn). Như thế bên cạnh khổ ảnh 10x15 sẽ
là 13x19 (chứ không phải 13x18). Đấy là nói về ảnh in ra từ phim cổ điển, còn phim kỹ thuật
số có tỉ lệ ảnh gốc là 4:3 cơ đấy nhé nên khi in ảnh 10x15 (khổ giấy in là cố định rồi) hoặc là trong Labo
người ta sẽ làm zoom ảnh của bạn lên cho kín hết khuôn giấy và cắt bỏ đi những chi tiết thừa xung quanh, trong trường hợp không thể
cắt bỏ ảnh thì người ta sẽ phải ép chiều cao ảnh xuống 10 cm và như thế chiều rộng của ảnh sẽ nhỏ hơn 15 cm. Đó
là lý do tại sao có hai dải băng mầu trẵng ở hai bên ảnh của bạn. Tuy nhiên trong một số
máy dCam của Sony có chức năng chụp ảnh ở tỉ lệ 3:2 nhưng điều này có nghĩa là bạn sẽ không dùng hết diện tích phơi sáng của mạch điện tử cảm quang vốn có tỉ lệ 4:3.
Còn về ảnh khổ vuông thì mình
thấy hay được áp dụng cho các ảnh phong cảnh biển, kích thước trung bình 15x15
hoặc 20x20 cm...Thể loại này thường chỉ áp dụng cho các ảnh cần thể hiện không
gian mà hạn chế về kích thước.
Nguyên tắc căn bản của chụp ảnh ban đêm khá đơn giản: đó chính là sự ổn định của máy ảnh dựa
trên chân máy, khuôn hình và đo sáng. Thế nhưng chụp ảnh buổi tối lại đòi hỏi
nhiều kinh nghiệm hơn lý thuyết vì ở mỗi một diều kiện ảnh sáng phức hợp khác nhau ta cần có một
cách chụp khác nhau.
1. Chọn phim
Có lẽ một trong những câu hỏi đầu tiên là ta sẽ sử dụng loại phim nào?
Âm bản? Dương bản hay kỹ thuật số? Với
các phim dương bản 50, 100 ISO thì chỉ có
loại phim chụp với ánh sáng ban ngày "Daylight" (5 500K)và chúng sẽ
làm "nóng" lên đáng kể nhiệt độ mầu của ánh sáng nhân tạo (3
200-3800K). Có những loại phim dương bản "Tungsten" nhưng hạt phim rất lớn. Như thế việc sử dụng phim âm bản, thậm chí tới tận
400, 800 ISO, là hợp lý hơn vì chúng điều hoà tốt các loại ánh sáng. Với kỹ thuật số
hiện tại thì chụp ảnh ban đêm không còn là khó khăn nữa vì khả năng cảm nhận mầu,
phâ biệt mầu cũng như thể hiện tốt các chi tiết trong bóng tối.
2. Độ nhạy ISO
Thế còn độ nhạy sáng của
phim, ta sẽ chọn ISO bao nhiêu là thích hợp?
Câu trả lời rất chính xác và đơn giản: chỉ số ISO được chọn tuỳ thuộc vào những
điều kiện ánh sáng lúc bạn
chụp ảnh. Với chân máy ảnh thì việc chụp ảnh ban đêm không có vấn đề gì hết với 50, 100 ISO khi thời gian chụp lâu và chân máy ảnh vững. Như thế ta có thể tái tạo lại những chi tiết rất rõ ràng. Bạn nên chụp bằng nhiều khuôn hình khác nhau với kỹ thuật "bracketing" để tránh lỗi
đo sáng nhầm do các nguồn sáng đặc biệt xuất hiện trong bố cục ảnh. Nếu như bạn không có dây bấm mềm hay điều khiển từ xa thì cách tốt nhất là để máy ở chế độ chụp tự động nhằm tránh những rung động
không cần thiết.
3. Tốc độ chụp
Chụp ảnh ban đêm đòi hỏi tốc độ chậm, màn chập mở lâu. Chính vì lý do
đó mà độ ổn định của chân máy ảnh là vô cùng cần thiết. Bạn không nên mở hết chiều cao của chân máy vì như thế chân máy sẽ chắc hơn. Lưu ý khi chụp ảnh trong thành phố gần đường giao thông vì
có nhiều rung động nền. Chân máy nhất thiết phải có đế cao su để triệt tiêu những rung động này. Tốc độ chậm còn có tác dụng
xoá đi những chuyển động không cần thiết. Tuỳ theo tốc độ chuyển động của vật thể cũng như ánh sáng mà
chúng có thể bị biến mất hoàn toàn hay một phần trong ảnh. Bạn
nên bấm máy trước khi chủ thể đi vào giữa khuôn hình để cho hình ảnh của phông
hiện rõ hơn.
4. Đèn flash
Còn chụp ảnh với đèn flash? Nếu như bạn muốn ghi lại một chuyển
động của vật thể thì đây là giải pháp tốt. Chụp đèn flash với tốc độ chậm ở ví
trí màn chập thứ 2. Ưu điểm của phương pháp này
là ánh sáng đèn flash chỉ có tác dụng sau khi vật
thể đã chuyển động và được ghi hình. Trong mọi tình huống thì bạn nên hiệu chỉnh
ánh sáng -0,3Ev hoặc 0,5Ev để tránh hiện tượng bị thừa sáng.
5. Đo sáng
Chụp ảnh trong đêm thì đo sáng như thế nào? Để thừa sáng hay thiếu sáng? ta chỉ có thể trả lời cho câu hỏi này
trong từng trường hợp cụ thể. Chế độ đo sáng phức hợp "Multizone" rất dễ cho ta một thông số
sai. Thường là ảnh của bạn hay bị thừa sáng. Thế nhưng hiệu quả thừa sáng trong điều kiện ánh sáng không gian vẫn còn đôi khi lại
là một ấn tượng bất ngờ. Bạn có thể chủ động tạo ra loại ánh sáng này bằng cách
thêm +1Ev hay +2Ev. Trong một số điều kiện khác, như với các công trình kiến trức được chiếu sáng trong đêm thì việc dùng chế độ đo sáng điểm "spot" để chọn khẩu
độ sáng vào vùng sáng nhất lại có một hiệu quả ngược lại với độ tương phản rất cao. Còn khẩu độ sáng khép sâu hay mở rộng lại tuỳ thuộc vào hiệu quả của hình ảnh
mà bạn muốn thể hiện (tất nhiên trong điều kiện ánh sáng thực tế cho
phép). Chẳng hạn như với f/11 hay f/16 thì thời
gian chụp sẽ lâu hơn và ánh đèn của các phương tiện giao thông sẽ để lại các vệt sáng dài, các
nguồn sáng nhỏ sẽ có tia sao đẹp tự nhiên hơn dùng kính lọc tia sao.
6. Cấu trúc ảnh kỹ thuật số
Chỉ có một câu trả lời duy nhất, đó là RAW. Lợi thế của RAW là sau khi chụp bạn có thể chỉnh lại
cân bằng trắng cũng như tông màu...
7. Địa hình, thời gian chụp
Vấn đề cuối cùng là phương pháp
nghiên cứu địa hình và thời gian
chụp thích hợp. Thường thì để có thể chụp tốt một địa điểm bạn nên đến đó nhiều lần trước vào những thời điểm khác nhau và ghi chép thật đầy đủ về ánh sáng. Để có được một tấm ảnh chụp đêm với
bầu trời xanh thật đẹp thì khoảng thời gian lúc màn đêm vừa mới bắt đầu buông
xuống là đẹp nhất. Bạn cần lưu ý đến lỗi thừa sáng, tốt nhất là chụp "bracketing" +1Ev và -1Ev.
Những kỹ thuật phụ trợ hay những cảnh chụp đặc biệt.
- Đài phun nước buổi tối: Với độ tương phản rất cao giữa bụi nước và các chi tiết kiến trúc thì việc +1Ev à cần thiết. Bạn có thể chụp nhièu kiểu khác nhau với hiệu chỉnh ánh sáng từ 0 đến +2Ev.
- Chuyển động của các vì sao: Bạn có thể dễ dàng đạt được hiệu quả này trong những đêm không trăng
thật tối. Máy ảnh đặt trên chân máy hướng về cực Bắc của trái đất (hướng sao Bắc cực) mở rộng khẩu độ ống kính
f/2,8 hoặc là f/4 tuỳ theo ánh sáng trên nền trời, ISO
100, thời gian chụp với chế độ B trong khoảng từ 10 đến 30 phút.
- Sau khi trời mưa: ánh sáng không gian sẽ được tái hiện lại một cách diệu kỳ chỉ bằng
kỹ thuật đo sáng phức hợp Multizone. Với sự tương phản cao thì ảnh đen trằng có một hiệu quả thẩm
mỹ rất tốt.
- Chụp chồng hình: đây
là kỹ thuật đơn giản nhất và dễ thực hiện.
bạn có thể chụp cảnh phông trước vào lức trời còn sáng và sau đó chụp chồng
hình chủ thể lên lúc trời tối.
- Kính lọc: chụp ảnh ban đêm bạn có
thể dùng thêm kính lọc tia sao "Star" để gây ấn tượng cho các nguồn
sáng. Chỉ nê dùng các hình sao từ 4-6 cánh cho hình ảnh đỡ phức tạp. Một loại
kính lọc rất có hiệu quả nữa là kính "Soft", nó cao tác dụng giảm bớt
ánh sáng mạnh của nguồn sáng cũng như làm giảm độ tương phản.
- Chụp ảnh pháo hoa: Điều căn bản đầu tiên là chọn
được một bố cục đẹp với tiền cảnh.
Ta có thể lấy 100 ISO và f/16 làm thước đo căn bản cho tính toán. Việc khép sâu
khẩu độ ống kính giúp tránh được lỗi thừa sáng do nhiều tia pháo hoa di qua cùng một điểm. Nếu tiền cảnh quá yếu sáng thì ta có thể dùng
thêm ánh sáng phụ trợ của đèn flash với kính lọc mầu.
IX-3, CHỤP ẢNH LƯU NIỆM
Thông thường các bạn mới chụp ảnh hay mắc một số lỗi và lúng túng khi sắp
xếp các nhân vật được chụp.
Ảnh lưu niệm không đòi hỏi cầu kỳ
nhưng cũng cần đảm bảo tính mỹ quan,
mỹ thuật như sắp xếp thứ tự, bố trí mầu sắc, ánh sáng sao cho hài
hoà.
+ Cái đầu tiên tôi muốn nói tới đó là không gian bức ảnh. Phần lớn người
mới cầm máy hay có tính “tham” nghĩa là khi giơ máy lên thì cái gì cũng muốn lấy vào khung hình, nó làm cho nội
dung, chủ đề định chụp bị phân tán, ảnh
trở nên rối rắm, nhìn vào nó người xem không hiểu bạn định chụp gì. Do vậy hãy
cố gắng hạn chế tới mức tối đa số lượng
thông tin đưa vào ảnh. Chắc chắn trong
khung hình phải có người mình định chụp và người này sẽ là trung tâm của bức ảnh
rồi sau đó muốn tả người này đang đứng ở nơi nào thì hãy chọn thêm 1 hay 2 đặc trưng của cái nơi người đó đang đứng để đưa vào ảnh. Đối với thể loại ảnh lưu niệm này tuỳ thuộc việc bạn để phông đằng sau
nét hay nhoè mà chọn độ mở của ống kính, thường hình lưu niệm thì cảnh đằng sau cũng sẽ nét.
+ Hướng chụp hình: Khi chụp hình người đang dứng thì nên chụp hất từ dưới
lên, người chụp thì ngồi xuống còn người được chụp thì đứng. Chụp kiểu này, người
được chụp dường như trông “cao” lên, do phần chân
gần ống kính hơn nên trông như dài thêm ra
còn phần trên thì ngắn lại. Lối
chụp này rất phù hợp với người Việt chúng ta vì chiều cao trung bình của dân ta hiện giờ vẫn còn
thấp. Nếu chụp chân dung cho những
người có khuôn mặt vuông hay tròn thì phải lựa máy vì phần mặt phía dưới trông
sẽ to ra khiến cho hai bên hàm càng bạnh
thêm, nhất là lại chụp chân dung, khuôn mặt lại càng gần máy ảnh hơn, cằm càng to hơn nữa.
+ Chụp góc rộng bị méo hình: Khi chụp bằng ống góc rộng từ 28 trở xuống
là hình dễ bị méo, ví dụ chụp một hàng người đứng dàn hàng ngang, nếu người chụp mà cũng đứng cùng tư thế với họ thì đầu của 2 người ở ngoài cùng sẽ bị
méo kéo vểnh lên như muốn chọc ra khỏi bức ảnh.
Do vậy trong tư thế này hãy hạ thấp máy ảnh
xuống tầm ngang thắt lưng hoặc thấp hơn 1 chút.
+ Tránh vật đè đầu: Lưu ý khi chụp tránh để có vật gì đó đè lên đầu của người được chụp khiến cho người đó như đang mang 1
vật nặng trên đầu. Ví dụ
chụp người với cảnh thì tránh các thứ như cột điện, thân cây…..đè thẳng vào đầu người, hoặc
1 đường ngang nào đó như mép phía trên nóc nhà chẳng hạn lại chạy cắt qua giữa đầu hay cắt ngang cổ người được chụp….
+ Bố trí mầu sắc: mầu sắc cần hài hoà, tránh bên “nặng”, bên “nhẹ” như có 5 người trong bức ảnh, 2 người áo vàng, đỏ, 2 người
mầu trắng và 1 người mầu hơi tối thì nên để người có mầu tối vào giữa ảnh, 2 người mầu trắng và 2 người
áo mầu thì chia đều 2 bên tránh để 2 người
áo trắng sang 1 bên và 2 người có mầu còn lại sang 1 bên, làm như vậy mầu sắc mất cân đối không hài hoà về mỹ thuật.
+ Thứ tự xếp người đứng trong hình :
Khi có nhiều người chụp cùng trong 1
kiểu ảnh thì phải sắp xếp làm sao trông độ cao của
mọi người trong ảnh là đều đều như nhau, to nhỏ cũng như nhau. để đạt được điều này thì ta cũng vẫn vận dụng tính chất “ai gần
máy hơn trông sẽ cao to hơn”, hãy xếp những người được chụp đó theo hình vòng
cung, ai to lớn nhất thì đứng vào giữa, ai thấp nhỏ bé cho ra đứng phía ngoài
cùng, vì xếp theo hình vòng cung nên
những người ở giữa sẽ xa máy ảnh nhất, ngược lại những người ngoài cùng sẽ gần
máy ảnh nhất Do vậy đứng từ phía máy ảnh trông vào thì độ cao và “độ rộng
ngang” (béo hay gầy) của mọi người trong hình sẽ là tương đối ngang nhau. Trên thực tế khi chụp ảnh ta sẽ gặp những hoàn cảnh thật
éo le, bảo người này đứng đây thì họ không đứng cứ muốn len vào giữa, vì ai
cũng quan niệm đứng ở giũa sẽ là nhân vật trung tâm quan trọng nhất nên ai cũng
muốn đứng vào giữa chứ không muốn đứng ra rìa, phần lớn những người này lại nhỏ
bé nên khi có ảnh rồi họ cứ trách ta là không biết chụp, hình của họ bé tí, họ có biết đâu đó là lỗi của chính họ gây ra.
+ Xử lý bóng đen sau đầu người khi chụp bằng đèn điện tử (flash): Khi
chụp ảnh bằng đèn flash gắn trên máy bao giờ cũng để lại những bóng đen sau đầu
trông rất xấu. Khắc phục tình trạng này bằng cách dùng thêm 1 đèn flash nữa
(đèn nhại) chiếu xiên ở 1 bên vào, hoặc nếu không dùng ngay đèn trên máy đánh vào tấm phản
quang nào đó như trần nhà, mảng tường sáng
bên cạnh chỗ đứng ……khi chiếu đèn
vào các tấm phản quang này thì nhớ mở thêm cửa sáng từ ½ đến 3/2 nữa.
+ Chụp trong phòng rộng như hội nghị: Nếu chụp trong các gian phòng lớn như hội trường….cần tận dụng hết tất cả các nguồn sáng đang có ở nơi đó như mở tất cả các cửa sổ, bật tất cả các đèn chiếu sáng đang có trong phòng đồng thời kết hợp với việc cân bằng ánh sáng giữa đèn
flash và ánh sáng hiện có trong phòng…
IX-4, CHỤP ẢNH KHI TRỜI MƯA
Điều này không có nghĩa là bạn
sẽ phải chịu trận dưới làn mưa xối xả, ướt như chuột lụt để có được những
khoảnh khắc đẹp đâu nhé.
Đơn giản là chúng mình sẽ chụp ảnh từ phía bên trong một khung cửa sổ,
từ trong xe taxi hay là dùng ô che mưa nếu...gió không mạnh quá!
http://mk29.image.pbase.com/u38/elamont/upload/25172748.IMG_4898a s.jpg
http://mk29.image.pbase.com/u38/elamont/upload/25172748.IMG_4898a s.jpg
January 15th, 2004 A portion of the view from my plot on the cubicle
farm... Typical day in the rainy Northwest.
Canon EOS 10D
1/500s f/8.0 at 112.0mm iso200
Bạn là người ưa dùng phim cổ điển? Giải pháp đơn giản là lựa chọn các phim có tông màu ấm và tương phản cao như: Fuji Velvia 50, Kodak Elitechrome ExtraColor 100 có khả năng ghi
hình tốt những độ tương phản thấp và giảm bớt
tông màu lạnh của trời mưa.
Bạn dùng máy ảnh kỹ thuật số (dSLR)? Để làm cho hình ảnh ấm áp hơn thì việc lựa chọn vị trí cân bằng trắng (WB) ở
Mây mù là thích hợp. Trong trường hợp máy ảnh của bạn cho phép chỉnh cả độ bão
hoà mầu, mầu sắc...thì bạn nên thử hết để tìm ra một cách hiệu quả nhất cho hình ảnh của mình. Nên xem lại
hình ảnh bằng màn hình máy tính đã được chỉnh màu chuẩn để có thể biết chính xác kết quả.
Bạn muốn chụp ảnh hạt mưa đang rơi? Ý tưởng độc đáo đấy! Để đạt được hiệu quả mong muốn
thì tốc độ chụp phải lớn hơn 1/500. Nếu trời vẫn còn sáng sủa thì ngay cả với thể loại ống kính amateur kém
nhạy sáng thị bạn vẫn có thể ghi được hình ảnh đẹp với khẩu độ ống kinh mở rộng
và phim có độ nhạy cao.
A cold and rainy day by the fjord..
A cold and rainy day by the fjord..
Taron Auto EE camera (Japan 1960),Taronar 45mm f1,8
exp.1/30 f:4.5 on Agfa APX100 D-76 1+1 scan 2400 DPI
Sự trợ giúp của đèn Flash trong chế độ "fill-in" (cân bằng với ánh sáng của không gian) sẽ tạo
nên một hiệu quả thú vị của những hạt mưa ánh lên một lớp sáng dịu dàng. Để tránh hiện tượng những
hạt mưa ở vị trí tiền cảnh bị thừa sáng bạn nên lùi lại một chút để
có một khoảng cách thích hợp với làn mưa. Tuy nhiên nếu bạn sử dụng các loại đèn flash nhà nghề thì vấn đề này không phải là phức tạp lắm.
Những hạt mưa cũng hoàn toàn có thể được ghi lại bằng tốc độ chậm (1/30)khi đó chúng sẽ đem lại cảm giác liên tục như một dòng nước chảy. Bạn có thể thử chụp cảnh mưa với những tốc độ chậm hơn nữa để có một bức ảnh với một màn nước xối xả đầy ấn tượng.
Những hạt mưa cũng hoàn toàn có thể được ghi lại bằng tốc độ chậm (1/30)khi đó chúng sẽ đem lại cảm giác liên tục như một dòng nước chảy. Bạn có thể thử chụp cảnh mưa với những tốc độ chậm hơn nữa để có một bức ảnh với một màn nước xối xả đầy ấn tượng.
Cách xử lý này đặc biệt đạt hiệu quả cao khi chụp trong đêm tối với ánh
sáng của phông tản ra, loé lên qua những hạt mưa....
IX-5,
CHỤP ẢNH KHI TRỜI GIÓ
Người ta thường hay nói "mưa gió" vì hai yếu tố này luôn gắn liền với nhau và cho dù bạn sử dụng một chiếc máy SLR hay dSLR thì các mạch điện tử ở bên
trong chúng không hề...tương thích với sự...ngấm nước một chút nào hết cả! Trong hoàn cảnh này thì một kính lọc
trung tính là cần thiết để bảo về bề mặt ống kính của bạn và nên sử dụng một chiếc túi ni-lông bao bọc lấy
toàn bộ thiết bị chụp ảnh. Nếu bạn nhất thiệt phải chụp ảnh khi trời mưa thì việc dán thêm một chút băng dính ở phần đầu ống
kính với túi ni-lông sẽ hạn chế đáng kể sự thấm nước
không cần thiết ấy.
Trời gió to thì mọi vật đều chuyển động: mây, cây cối, những vật nhẹ...Như thế để tái tạo lại ấn tượng này thì tốc độ chậm
là giải pháp tuyệt vời nhất. Thêm vào đó gió to sẽ làm cảnh vật chao đảo và làm sai số đáng kêt độ nét, như thế hoá lại hay vì ta sẽ có những tấm ảnh rất...nghệ
thuật!
Nếu như ánh sáng tự nhiên quá mạnh khiến cho bạn không thể sử dụng tốc độ chậm thì chỉ
cần dùng thêm một kính lọc phân cực (Polariseur) để giảm tốc độ xuống 2 nấc.
Newquay UK
Newquay UK
Canon EOS 10D ,Sigma 170-500mm f/5-6.3 RF APO
Nếu bạn muốn chụp ảnh những
cơn sóng quay cuồng trong gió lớn thì tốc
độ cao 1/500 sẽ giúp bạn bắt được hình ảnh những con sóng đẹp dữ dội. Kinh nghiệm
cho thấy cần quan sát kỹ trước hướng gió và hình dáng các con sóng từ xa, so
sánh chúng với những con sóng đến
trước và nhất thiết cần phải bấm máy một
khoảnh khắc trước khi con sóng vỡ tan vào các tảng đá hay bờ biển. Để làm sinh
động thêm tấm ảnh của mình bạn nên chọn một vị trí đẹp mà từ đó có thể lấy thêm
vào trong cảnh hình các ngôi nhà, hình người hay những vật thể quen thuộc để
làm chuẩn so sánh với kích thước của các con sóng.
Còn về việc đo sáng thì bạn
hoàn toàn có thể tin cậy giao phó cho máy đo sáng tự động ở chế độ "Multizone" - đo sáng phức hợp,
để lấy được đủ các chi tiết. Nếu bạn lại muốn ưu tiên ánh sáng cho một chủ thể cố định thì có thể đo sáng trước
vào đó và chịu hy sinh chi tiết trong
ngọn sóng bị thừa sáng.
Olympus E-1 ,Zuiko Digital ED 50-200mm f/2,8-3,5
1/200s f/4.5 at 208.0mm iso100
Sau khi chụp ảnh xong thì việc đầu tiên bạn cần làm là sấy khô các túi
máy, dùng các loại khăn đa dụng lau chùi thật cẩn thận vỏ máy ảnh sau đó dùng
khăn khô bằng vải mềm lau sạch các vết bẩn và nước đọng trên máy ảnh.
IX-6,
MƯA ĐÊM VÀ NHỮNG TIA CHỚP
Những cơn mưa đêm thẳm sâu và hối hả rơi xuống thành phố rực ánh đèn mầu đó chính là khoảnh
khắc sáng tạo của bạn. Hiệu quả nghệ thuật thường rất khả quan. Đôi khi chỉ cần
chụp chồng hình những giọt nước mưa đang rơi hay những giọt nước đọng lại trên khung cửa kính lên
trên khung cảnh sáng rực của thành phố ban đêm là đã đủ đẹp lắm rồi.
Nikon D1h ,Nikkor 24-80 2.8 AFS
1/20s f/2.8 at 28.0mm Hand Held
Có một điều chú ý là để thành công
trong chụp chồng hình thì phải trừ bớt -1 khẩu độ sáng ở cả hai tấm hình để có
được kết quả như ý ở tấm ảnh ghép. Khi bấm máy nhớ không để lọt
vào trong khuôn ngắm một nguồn sáng quá mạnh, trong trường hợp không thể làm
khác thì cần hiệu chỉnh khoảng +0,5 đến +1 khẩu độ sáng.
Trong thành phố ban đêm thì những trang phục màu trắng hay những đám
tuyết trắng (nếu có) ở châu Âu sẽ tạo nên những điểm nhấn và hiệu
quả bất ngờ đấy. Chụp ảnh trời mưa buổi tối bạn có thể dùng tốc độ cao thậm chí
khuôn hình không cần chân máy ảnh. Để đạt được hiệu quả đẹp hơn về ánh sáng thì bạn nên chụp lúc màn đêm mới vừa
buông xuống, bầu trời vẫn còn xanh và mầu sắc vẫn còn trong tông màu ấm thì sẽ
có một nền ảnh rất tuyệt.
Còn chủ đề chụp ảnh những tia chớp
trong đêm lại có một sự hấp dẫn và đòi hỏi nhiều sự kiên nhẫn của bạn. Nhưng cũng nên lưu ý rằng bộ đồ nghề chụp ảnh của bạn gồm chân máy ảnh (dù là kim
loại hay cácbon) đặt trên mặt đất sẽ là một điểm quyến rũ để cho các tia chớp...xả điện đấy nhé. Vậy
nên tốt hơn hết bạn nên chụp ảnh từ
trong nhà, trong ô-tô...để tránh những rủi ro đáng tiếc.
Ở đây có một câu hỏi khá phổ biến: vậy thì ta sẽ chọn khẩu độ sáng là bao nhiêu? Kinh nghiệm cho thấy
khẩu độ giữa f5,6 và f11 là thích hợp. Vấn đề còn lại chỉ là sự kiên nhẫn và cầu mong cho may mắn giúp mình bắt được
tia chớp khi onngs kinh vẫn còn mở. Thời gian chụp trung bình thường ít khi vượt
quá 30 giây. Cần lưu ý nền trời gần với thành phố
thường khá sáng do đó đẽ bị thừa sáng ở khu vực này. Trong điều kiện này thì sử dụng máy kỹ thuật số có ưu thế là biết ngay kết quả chụp để khắc phục.
Sau khi có tia chớp bầu trời bao giờ cũng sáng hơn một cách đặc biệt và bạn có thể tận dụng cơ hội này để chụp thêm vài tấm ảnh phong cảnh ban
đêm.
Với cấu trúc của hàng tỉ tỉ tinh thể nước lơ lửng trong không khí sương mù là một hiện tượng của thời tiết mà tuỳ thuộc vào vị trí của nguồn sáng nó sẽ
trợ giúp làm phân tán ánh sáng hay phản xạ ánh sáng. Trong ánh sáng tự nhiên
thì sương mù làm cho cảnh vật trở nên huyền ảo đôi khi siêu thực. Để chụp được một tấm ảnh
phong cảnh trong sương mù đẹp, trong trường hợp chủ
thể có độ tương phản tối thiểu, bạn có thể
hoàn toàn tin cậy vào chức năng đo sáng tự động phức hợp của máy ảnh
"Multizone". Cũng vẫn dùng kỹ thuật như thế bạn có thể chờ đợi lúc màn sương đột ngột rẽ ra để lộ một phần của phong cảnh
tuyệt đẹp. Có một điểm cần chú ý là việc dùng tiêu cự tự động trong trường hợp
này sẽ rât rủi ro vì máy ảnh có thể không thể lấy nét được vào chủ thể do độ
tương phản kém của màn sương. Giải pháp chắc chắn nhất là canh nét bằng tay
"Manual". Nếu như bạn thấy sương mù chiếm phần lớn khuôn hình thì rất có thể hệ thống đo sáng Multizone sẽ bị nhầm (thường là cho một chỉ số thiếu sáng) bạn nên cẩn trọng tăng thêm một khẩu độ
sáng +1.
1/175s f/8.0 at 8.9mm iso100
Trong trường hợp bạn muốn chụp ảnh ai đó trong màn sương thì nên lưu ý rằng phông sẽ sáng hơn chủ thể. Việc dùng đèn flash ở chế độ "fill-in" là giải pháp hoàn hảo
nhất, nhân vật sẽ sáng rõ và nổi bất trên màn sương một cách rất nghệ thuật. Đa phần các máy ảnh hiện
hành có thể xử lý rất tốt các cảnh sương mù nhưng tại sao ta không thử làm "Bracketing"
* với nhiều chỉ số đo sáng khác
nhau xung quanh khẩu độ sáng trung bình để có được phông ảnh sương mù hoặc là sáng sủa, hoặc là tối sẫm cân bằng với
tiền cảnh. Bạn cũng có thể thử
nghiệm thêm với kính lọc mầu hay dùng flash với thiết bị phản xạ, tạo ánh sáng không trực tiếp...Như thế bạn sẽ hài lòng với những sáng tạo của cá
nhân mình.
Minolta DiMAGE 7Hi ,28-200
Minolta DiMAGE 7Hi ,28-200
IX-8,
CHỤP ẢNH KHI TUYẾT RƠI
A, xứ sở của nàng Bạch tuyết luôn là đề tài cho những câu chuyện
cổ tích và chủ đề cho những ai muốn sáng tạo
cho riêng mình những tấm ảnh mang hồn cổ tích.
Một hôm bạn mở cửa ra và bỗng nhiên thấy tuyết rơi, cảm giác thật tuyệt vời! Hay lần nào đó nghe
đài báo trên Sapa có tuyết thể là cả hội khăn gói
lên đường chờ khoảnh khắc kỳ diệu ấy.
Bạn cần phải thật khẩn trương để có thể bắt được những khoảnh khắc đẹp nhất
trước khi tuyết tan. Vấn đề của chụp ảnh tuyết thì có lẽ ai cũng đã biết đó là lỗi đo thiếu sáng của máy trong trường hợp cảnh chụp rộng
mặc dù hệ thống đo sáng multizone rất hiệu quả trong đa số các trường hợp. Để
tránh cho tấm ảnh của bạn không bị quá tối những vùng không có tuyết thì bạn nên hiệu chỉnh ánh sáng thêm +1 tới
+1,5 khẩu độ sáng và những đám tuyết của bạn sẽ ánh lên một mầu trắng tinh khôi diệu kỳ.
Nikon D100
Nikon D100
1/180s f/7.1 at 34.0mm
Mải mê chụp ảnh nhưng bạn không được quên mang thêm trong hành lý của mình ít pin dự trữ nhé
vì thời tiết lạnh sẽ làm giảm tuổi
thọ của pin đáng kể đấy. Kinh nghiệm cho thấy là bạn nên đổi pin chụp liên tục
thì cả bộ pin sẽ chụp được lâu hơn. Nếu bạn chụp bằng phim cổ điển thì cần lưu ý nhiệt độ thấp sẽ làm cho phim bị cứng lại, rất
giòn và sắc nữa. Thế nên bạn cần tua phim lại
bằng tốc độ chậm để tránh phim bị gãy hoặc những rủi ro đáng tiếc.
Nikon D100
Nikon D100
1/180s f/7.1 at 28.0mm
IX-9,
CHỤP ẢNH BIỂN
Biển khơi là một đề tại chụp ảnh tuyệt vời nhưng việc tìm tòi bố cục lại không hề đơn giản khi bạn muốn có một tấm ảnh độc đáo. Bạn hãy tạo cho mình thói
quen đặt đường chân trời ở 1/3 ảnh phía trên hay phía dưới. Để đường chân trời
vào trung tam sẽ làm mất đi hiệu quả không gian và không định được hướng nhìn.
Với ống kính góc rộng thì tiền cảnh
là một yếu tố vô cùng quan trọng
vì nó sẽ thu hút điểm nhìn chính. Sự hiện hữu của tiền cảnh sẽ tạo thêm chiều sâu của hình ảnh và tạo sự tương quan hợp lý với những chủ thể bị đẩy ra xa do tác dụng
của ống kính góc rộng. Thường thì một tiền cảnh có mầu sắc phong phú, tương phản với tông màu của biển sẽ cho một kết quả rất khả quan.
Canon PowerShot S400
Tv( Shutter Speed ): 1/1250
Av( Aperture Value ): 7.1
Exposure Compensation: -2/3
File Size: 871KB
Sự tương phản đối lập về kích thước và mầu sắc có một vai trò quan trọng
trong việc tái tạo lại không gian bao la của đại dương, nhất là khi bạn in ảnh khổ nhỏ. Một con tầu mầu
đỏ nhỏ xíu ngoài khơi xa trên những ngọn sóng, dáng hình
của một ngọn đèn hải đăng lẻ loi trên biển, một vài ngư phủ tráng kiện sẽ đem lại tỉ lệ so sánh một cách
tự nhiên cho hình ảnh. Những bố cục kiểu như thế này chỉ có thể đạt hết hiệu quả của nó khi phóng ra ảnh khổ 60x80
cm hay lớn hơn mà thôi.
Đại dương và ánh sáng kết hợp với nhau tạo ra những
sự đa dạng bất tận của các kiểu ánh sáng thêm vào đó lại là sự thay đổi bất thường
của thời tiết luôn làm ta bất ngờ. Do
đó sự quen thuộc với thời tiết tại
nơi mìng muốn chụp ảnh sẽ giúp bạn
đoán trước được phần nào những sự thay đổi ấy.Trên biển ánh sáng có độ tương phản rất cao và hay tạo nên những hiệu quả tuyệt
vời trên những cánh buồm. Nhưng tia sáng bất chợt rạch những đám mây cũng là một trong những đề tài yêu thích ở biển. Để có thể tái tạo lại
chính xác nhwũng gì bạn nhìn thấy thì cần phải chọn điểm đo sáng vào vùng ánh
sáng mạnh.
Việc xử lý đo sáng đúng sẽ mạng lại cho những tấm ảnh của bạn cái thần
và vẻ đẹp nghệ thuật. Sự hiệu chỉnh ảnh sáng khá thông dụng là tăng 1 khẩu độ
sáng +1Ev với những tấm ảnh chụp thuyền bè có bố cục hẹp để có thể ghi lại mầu trắng thật sự của những cánh
buồm.
Ngược lại cho những ảnh chụp toàn cảnh đại dương thì bạn giảm đi -1 Ev hay nhiều hơn nữa đề đạt tới độ tương phản cao của hình dáng những
con tàu trên nền sáng. Có rất nhiều cách đo sáng khi chụp ảnh đại dương nhưng có lẽ phổ biến nhất vẫn là đo sáng phức hợp Multizone rồi hiệu chỉnh ánh sáng để đạt
được kết quả mong muốn. Cách làm
này rất đơn giản mà hiệu quả lại đẹp đến không ngờ.
Nếu bạn cầu kỳ hơn thì chế độ đo sáng điểm Spot tại những chi tiết quan trọng sẽ giúp bạn làm chủ sự đa dạng của
ánh sáng bằng cách hiệu chỉnh Ev hay thay đổi chỉ số Khẩu độ sáng/tốc độ chụp.
Bạn cũng có thể đo sáng vào nhiều điểm
khác nhau của hình ảnh rồi tính toán khẩu độ thích hợp cho toàn ảnh.
Sau khi đã nói về những nguyên tắc chung
nhất của chụp ảnh biển thì bây giờ chúng ta sẽ cùng nhau đi vào những chủ đề chi tiết hay gặp khi ra biển.
Đầu tiên là chụp ảnh những con tàu.
Trên biển những con tàu chuyển động đôi khi rất nhanh và điều này lại không hề thuận lợi cho nhiếp ảnh. Chính vì thế mà bạn cần chỉnh nét bằng tay trước vào một
điểm trên hướng đi của con tầu, có thể là một con sóng lớn chẳng hạn, rồi quan
sát thật kỹ trong khuôn ngắm khi con tầu đi vào vùng nét. Trước đó bạn phải chắc
chắn rằng khẩu độ mở của ống kính cho phép độ nét sâu của toàn bộ vật thể. Bằng
kinh nghiệm cá nhân bạn có thể dễ dàng giảm độ nét sâu và bấm máy khi phần quan
trọng nhất của con tầu đi vào vùng nét.
Zoom Nikkor 70-300 ED, chụp tại 250 mm.
Zoom Nikkor 70-300 ED, chụp tại 250 mm.
Phim Fuji Superia 200 ISO. Scan tại Labo.
Khi thời tiết đẹp thì những cánh buồm
trên biển sẽ là một cảnh đẹp lộng lẫy và bạn hoàn toàn có thể sử dụng chế độ tiêu cự tự động liên tục AF-Continu bám
theo đối tượng mà điểm ngắm đầu tiên dễ chon lựa nhất khi con tàu nhổ neo. Thế nhưng chế độ AF-C này cũng lại có những nhược điểm đó
là khi la mở khẩu độ ống kính lớn, độ nét sâu kém và AF-C lại bắt vào một chi
tiết phụ của con tàu nằm ở
phía trước chi tiết chính thì những ngư phủ sẽ bị mờ. Chính trong trường hợp này thì khả
năng AF đa điểm lại tạo nên ưu thế. Bạn chỉ cần chọn điểm nét bên cạnh của khuôn ngắm để đảm bảo nét cho
các chi tiết phụ còn điểm lấy nét
trung tâm sẽ căn vào ngư phủ. Nếu như bạn chỉ sử dụng duy nhất tiêu điểm trung tâm của AF thì phải ghi nhớ chỉ
số nét vào điểm cần chụp trước khi khuôn lại hình và bấm máy.
Cách chụp này có lợi thế là
bạn lựa chọn được chính xác điểm lấy nét trong điều kiện con tàu chuyển động ngang trên biển và
khoảng cách với bờ là không đổi. Cần chú ý không để các thiết bị kỹ thuật che khuất mặt ngư phủ cũng như những bóng đổ xấu nhất là khi đường chân trời thấp
hơn điểm nhìn.
Shooting Mode: Manual
Photo Effect Mode: Off
Tv( Shutter Speed ): 1/1600
Av( Aperture Value ): 13
Metering Mode: Evaluative
Exposure Compensation: -1
ISO Speed: 50
Focal Length: 22.2 mm
Image Size: 1600x1200
Image Quality: Superfine
White Balance: Daylight
AF Mode: Single AF
File Size: 929KB
Xoá thông số màu để tạo ảnh đen trắng bằng Photoshop.
Cảnh biển nhìn từ bờ cát. Không cần phải ở trên tàu thì bạn mới có thể có
được nhưng bức ảnh về đại dương tuyệt vời. Ngay từ bãi biển cát trắng ta có thể
làm điều đó. Cần phải tìm được một
cái nhìn tốt và một ống kính télé đủ mạnh (từ 200-300 mm cho cảnh rộng) và một ống
kính góc rộng cho ảnh phong cảnh. Với một ống kính télé bạn có thể ép những ngọn
sóng cùng mặt phẳng với những con tàu rồi tất cả lại in lên một nền trời và những hòn đảo xa.
Zoom Nikkor 70-300 ED, chụp tại 300 mm.
Phim Fuji Superia 200 ISO. Scan tại Labo.
Khuôn hình lại bằng Photoshop.
Cũng với góc nhìn như thế bây giờ bạn thay bằng ống kính góc rộng (17-28 mm) để ghi lại hình
dáng thật đẹp của những con sóng tiền cảnh và tận cùng của phông là bờ biển duyên dáng uốn cong mình. Bạn
có thể để một em bé chạy trên sóng nước tiền cảnh, dùng flash "fill-in" và chắc chắn bạn sẽ có một tấm ảnh
kỷ niệm tuyệt vời.
Phim Fuji Superia 200 ISO. Scan tại Labo.
Cần chú ý: để có thể đạt được ánh sáng đẹp như nhiếp ảnh chuyên nghiệp thì bạn nên chụp thử với
khẩu độ sáng -1 Ev nhé, nó sẽ có tác dụng làm tăng ánh sáng ấm của hình ảnh,
tăng độ tương phản.
IX-10,
CHỤP ẢNH CHÂN DUNG
Bạn có trong tay một chiếc máy ảnh tốt, SLR hay dSLR không quan trọng, và muốn có
được những tấm ảnh đẹp về gia đình, người thân yêu...những tấm hình chân dung mà đôi khi người
ta hay nhắc đến bằng những cảm giác ngưỡng
mộ nghệ thuật hay bí ẩn nằm phía sau mỗi nụ cười.
Vậy thì thế nào là ảnh chân dung?
Câu hỏi dễ trả lời và cũng dễ không trả lời chính xác. Ảnh chân dung không chỉ
đơn giản là tấm ảnh chụp một ai
đó. Bạn có thể quan tâm đặc biệt tới dáng vẻ, trang phục, hay những chi tiết đặc biệt nào đó của nhân vật và thể hiện
chúng rất đẹp thế nhưng đó lại không phải là những yếu tố cấu thành một tấm ảnh chân dung.
Ảnh chân dung, đó chính là sự lột tả thành công một phần hay toàn bộ
tính cách của nhân vật thông qua kỹ thuật nhiếp ảnh.
Zoom Nikkor 70-300 ED, chụp tại 300 mm.
Zoom Nikkor 70-300 ED, chụp tại 300 mm.
Phim Fuji Superia 200 ISO. Scan tại Labo.
Ta có thể chia ảnh chân dung ra làm nhiều thể loại khác nhau:
1. Ảnh chân dung có sự sắp đặt hay nói theo kiểu nhà nghề là có "pose"
2. Ảnh chân dung tự nhiên chụp khi nhân vật đang hoạt động "real
time"
Ngoài ra thì ảnh chân dung có thể được chụp ở trong hay ngoài Studio với
một số bố cục, chọn lựa khung cảnh tự nhiên nhằm làm nổi bật hơn tính cách của nhân vật.
Trong nhiếp ảnh chân dung bạn chắc
hẳn đẽ nghe nói tới nhiều lần cái "Hồn"
của một tấm ảnh. Cái hồn ở đây nằm trong chính nhân vật và nó chỉ xuất hiện
trong một khoảnh khắc xuất thần không định trước đòi hỏi trực giác của nhà nhiếp ảnh bấm máy đúng lúc. Bài học mà ta chỉ có
thể đạt được bằng một tâm hồn nhạy cảm vả kinh nghiệm thực tế mà thôi.
Phim Fuji Superia 200 ISO. Scan Epson 1650.
Để đạt được kết quả đó bạn cần có một sự
tò mò, năng khiếu quan sát và một cảm ứng
tình cảm nhanh nhạy. Trước khi bấm máy bạn cần học cách quan sát nhân vật, tính
cách và những cách biểu hiện tình cảm của họ. Rồi từ những quan sát này bạn sẽ
hình dung ra cách mà mính sẽ tái tạo lại nhân vật trong ảnh. Người chụp ảnh
chân dung giỏi là người có khả năng làm việc và suy nghĩ trực tiếp bằng hình ảnh mà không cần ghi chép.
Sự khác biệt trong nhiếp ảnh
đó chính là cách mà người cầm máy nhìn nhận và đánh giá cùng một sự vật. Có rất
nhiều cách cùng để đi tới một
mục đích, bạn cần để ý tưởng của mình rộng mở, ý thức được việc mình đang làm
cùng với sự cẩn trọng tối đa.
Zoom Nikkor 70-300 ED, chụp tại 150 mm.
Zoom Nikkor 70-300 ED, chụp tại 150 mm.
Phim Fuji Superia 200 ISO. Scan tại Labo.
Sau khi đã nắm bắt được cái thần của nhân vật thì bây giờ mới là lúc bạn
đi vào bố cục của góc nhìn, chiều
ánh sáng, độ sâu của trường ảnh hay ấn tượng của phông nền. Không có giới hạn về trong việc sử dụng màu sắc hay đen trắng. Những
nguyên tắc về bố cục chỉ là tương đối. Sự sáng tạo nằm trong tay bạn. Hãy cùng
sáng tạo nhé!
Cá nhân mình ưa chụp ảnh chân dung bằng
zoom từ xa, hay nói đúng hơn là có một đam mê muốn tái tạo lại cái hồn của cuộc sống qua từng khuôn mặt,
qua từng tính cách. Như các bạn đã thấy, phần lớn các ảnh
mà mình post lên đây đều được chụp bằng AF
Zoom-Nikkor 70-300mm f/4-5.6D ED, một loại rất amateur. Thế nhưng trong nhiếp ảnh sự khác biệt lại nằm trong khả năng quan
sát và cảm nhận của bạn tuy nhiên không thể bỏ qua điều kiện kỹ thuật tốt sẽ cho phép bạn dễ dàng
thao tác hơn trong mọi hoàn cảnh.
Nói về lý thuyết có lẽ hơi khó hình dung. Mình sẽ cố thử đi sâu các vào tình huống cụ thể mà
mình đã "chộp" được những tấm ảnh này nhé.
Mình thích gọi tấm ảnh này với tên của cuốn tiểu thuyết nổi tiếng "Ông già và Biển cả". Lần lang thang đến thành phố Chania ở trên đảo Crete, men theo bờ biển Egée (một phần của Địa Trung Hải) trong cái nắng mùa hè chói chang và những cơn gió không ngớt mình đã vô tình bắt gặp hình ảnh này vào một buổi chiều. Cảm xúc đến trực tiếp. Mình dừng lại và chụp liên tục gần như ở tất cả các tiêu cự để không bỏ lỡ một cách khuôn hình nào cả. Chụp theo cảm xúc và kỹ thuật chỉ còn là bản năng.
Mình thích gọi tấm ảnh này với tên của cuốn tiểu thuyết nổi tiếng "Ông già và Biển cả". Lần lang thang đến thành phố Chania ở trên đảo Crete, men theo bờ biển Egée (một phần của Địa Trung Hải) trong cái nắng mùa hè chói chang và những cơn gió không ngớt mình đã vô tình bắt gặp hình ảnh này vào một buổi chiều. Cảm xúc đến trực tiếp. Mình dừng lại và chụp liên tục gần như ở tất cả các tiêu cự để không bỏ lỡ một cách khuôn hình nào cả. Chụp theo cảm xúc và kỹ thuật chỉ còn là bản năng.
Đó là cảm giác mà mình có được khi đến vườn đào Nhật Tân chiều 30
Tết vừa rồi. Thời tiết không thuận lợi lắm cho chụp ảnh bằng zoom vì
mây mù rất nhiều. Cũng lại vẫn là cảm
xúc đã đưa mình đến tấm ảnh này khi anh chủ
vườn đào thẫn thờ nhìn chị vợ có bán vớt vát mấy cành đào có hoa được bẻ ra từ
những thân cây khô khốc. Trong cái nhìn ấy chứa đầy vẻ cam chịu và xót xa.
Đó cũng là điều mà mình cảm thấy trong
ánh mắt của cô bé con này khi vừa đặt chân tới bến tàu trên một nhánh sông Đà. Một bố cục kỳ lạ,
không cần phải suy nghĩ, chỉ việc bấm máy. Dáng vẻ tự nhiên của người mẹ và tư thế ngỡ ngàng cùng ánh mắt trong veo của cô bé con
này có một sự cuốn hút kỳ lạ. Tiếc là phim làm scan không được thật trung thực về chất liệu và ánh sáng.
Sapa năm ấy mây mù. Bước chân ra phố chợ là tôi lập tức bị cuốn hút
theo những vạt áo chàm. Những người miền núi nơi đây có một sức sống hoang sơ mà mạnh liệt. Trong cái dáng vẻ lầm lỳ, ít nói ấy
là cả một sức mạnh của núi rừng thẳm sâu. Gần như là đứng giữa đường tôi chủ động "lia" ống
kính chụp những khuôn mặt cách xa khoảng 20-30 m để giữ nguyên vẹn những cảm
xúc tự nhiên ấy.
Và bây giờ sẽ là các bạn nhé...
Có lẽ những bạn cầm máy trong HNC đã không ít lần tự đi tìm cho mình một
tấm ảnh Chân dung đẹp của ngay những người thân trong gia đình hay trong một
khoảng khắc ngẫu hứng nào đó giữa những cú bấm máy thời trang mệt mỏi...vô tình
nhận ra dưới những lớp son phấn của cô người mẫu là một điều gì đó không tên mà quyến rũ. Hay có khi trong những tấm ảnh đời thường
trên phố đôi khi ta cũng bắt gặp những khoảnh khắc như thế. Chưa thật hẳn là cái Thần mà chỉ mới là cái Duyên nhưng cũng đã quý hoá lắm rồi. Nói về cái Duyên ở đây lại có nhiều khía cạnh, trước hết là "duyên" của người cầm máy gặp
ngày trời đẹp và người mẫu thú vị, "duyên" của việc bắt được khoảnh
khắc quý giá. Cái này bổ sung cho cái kia. Có những nhiếp ảnh gia thành thạo chụp ảnh chân dung kiểu bố
trí có đạo diễn, không bao giờ cần chụp theo khoảnh khắc nhưng điều ấy cũng không có nghĩa là anh ta không cần
"khoảnh khắc xuất thần" của người mấu.
Đơn giản là anh ta chủ động tạo
ra những "khoảnh khắc" ấy chứ không đợi nó xuất hiện. Hiệu quả của tấm
ảnh và cái Duyên có được trong ấy không chỉ còn phụ thuộc vào một yếu tố kỹ thuật đơn lẻ nữa mà nó là kết quả của cả một tổng hoà các yếu tố kỹ thuật và sáng tạo.
dSLR Nikon D70 + 105mm D Micro.
dSLR Nikon D70 + 105mm D Micro.
1/125s f/5,6, ISO 400. Ảnh nguyên gốc.
Chụp ảnh Chân dung trong studio có lợi thế là chủ động về bỗ cục và ánh sáng nhưng nó đòi hỏi óc sáng tạo rất cao và cá tính của người chụp.
Chụp ảnh chân dung trên phố bị phụ thuộc vào nhiều may rủi của thời tiết, bối cảnh...nhưng nếu thành công thì nó sẽ là những tấm hình có một
không hai. Xét cho cùng mà nói, khi chụp ảnh chân dung người ta đã bỏ qua bước
kỹ thuật, coi nó như hiển nhiên, mà chỉ tập trung
vào cách đoán "Tướng diện" của nhân vật. Với mỗi một khuôn mặt kèm
theo tính cách của nó ta có một góc nhìn và ánh sáng khác nhau. Việc lựa chọn
chúng hoàn toàn do người bấm máy.
dSLR Nikon D70 + 105mm D Micro.
dSLR Nikon D70 + 105mm D Micro.
1/125s f/3,5, ISO 640. Ảnh nguyên gốc. Chuyển sang B&W bằng PS CS.
NTL ưa thực hành chụp ảnh chân dung
qua thể loại ảnh đời thường. Thôngthường thì một ống kính zoom 70-200mm f/2,8,
nếu có VR, IS...nữa thì
càng tốt, là đủ để thao tác nhưng đôi khi một ống kính góc rộng kiểu 28mm cũng cho những kết quả rất bất ngờ. Cần xác định trước một địa
điểm có nhiều người qua lại nhưng cũng lại có đủ không gian và cả góc khuất để tiện
thao tác. Có nhiều cách săn ảnh:
đứng tại một chỗ và lia ống kính ra xung quanh hay cùng lang thang với
mọi người. Ưu điểm của việc đứng tại chố
là chủ động về góc nhìn, phông nền...nhưng không phải lúc nào ta cũng chọn đúng địa điểm tốt.
Cách đi lẫn vào với mọi người có khó khăn trong việc thao tác kỹ thuật, bị động
về bối cảnh và đòi hỏi một
tốc độ chụp rất nhanh nhưng bù lại ta thường hay tìm được
những điều thú vi. Cho dù bạn chọn
phương pháp nào đi chăng nữa
thì việc đầu tiên cần làm là Quan sát.
1/125s f/5,6, ISO 400. Ảnh nguyên gốc.
Chỉ có bằng quan sát kỹ lưỡng ta mới có thể nhận ra những khoảnh khắc
tuyệt đẹp thoáng qua trong đời mà thôi. Về kỹ thuật thì nếu bạn chọn kiểu ảnh chộp
chớp nhoáng thì nên dùng Tv với tốc độ lý tưởng là 1/250s, nếu không thì 1/125s cũng có thể cho kết quả tốt nhưng với một kinh nghiệm dầy dạn. Sử dụng Av rất sướng
trong việc khống chế độ nét sâu của trường ảnh
D.O.F nhưng khi đối tượng di chuyển và thời
tiết không thuận lợi sẽ ép bạn
phải dùng các ISO cao đấy. Với các máy ảnh dSLR mình hay chụp ở cấu trúc ảnh
RAW (NEF) và ISO tối đa tại 400. Lợi thế của ảnh RAW là bạn có thể "cứu" được khá nhiều thứ sau khi đã bấm máy rồi. Khuôn hình cho ảnh
chân dung đời thường thì sao? Trong đa số các trường hợp ảnh chộp bạn sẽ phải
khuôn hình lại với máy tính nhưng sau một thời gian nhất định, kinh nghiệm sẽ giúp bạn giảm bớt điều này, biết tận dụng những vật cản để tạo nên khuôn hình đẹp cho tấm ảnh.
dSLR Nikon D70 + 105mm D Micro.
dSLR Nikon D70 + 105mm D Micro.
1/125s f/3,5, ISO 400. Ảnh nguyên gốc.
Một vài trao đổi xuất phát từ kinh nghiệm cá nhân, chắc chắn chưa thể hoàn chỉnh, rất mong nhận được ý kiến của các bạn về đề tài này.
IX-11,
CHỤP PHÁO HOA
Chụp ảnh pháo hoa bằng dCam thì sẽ có nhiều hạn chế đấy nhưng chung mình sẽ cùng tìm cách khắc
phục nhé. Theo kinh nghiệm của riêng mình thì bạn có thể tiến hành các thao tác sau đây:
1. Lựa chọn cân bằng trắng WB ở "cloudy".
2. Lựa chọn ISO ở 50.
3. Nếu như bạn có chế độ Av thì chọn f/11 hoặc f/8 với những máy dCam chỉ có f max. = 8.
4. Chọn chế độ đo sáng trung tâm.
5. Chọn chế độ chụp ảnh
"Landscape" hoặc đặt nét vào vô cực nếu có thể.
6. Tắt đèn flash.
7. Chọn chế độ chụp liên thanh.
Các thao tác chụp ảnh pháo hoa với máy ảnh chụp cầm tay thì bạn nên lưu ý các vấn đề sau:
1. Khuôn hình: bạn nên chọn một vị trí thuận lợi, không bị cản trở
trong thao tác chụp ảnh. Vì là chụp không có tiền cảnh và không gian rộng nên bạn cần lưu ý tới đồ hình của những chùm pháo hoa.
2. Bạn nên quan sát khoảng 5 phút cách thức bắn pháo hoa và thời gian
giữa các chùm pháo hoa để có thể lựa chọn được thời điểm bấm máy thích hợp.
3. Bấm máy vào lúc nào? Theo kinh nghiệm của mình thì NTL luôn bấm máy
vào đúng khoảnh khắc viên đạn pháo hoa đạt đủ độ cao và bắt đầu phát sáng. Bạn
nên chọn cảnh có nhiều chùm pháo hoa cùng bắn
lên nhé vì dCam không thể chụp như dSLR với chân máy ảnh được.
4. Chế độ chụp liên thanh sẽ rất
hữu dụng khi pháo hoa bắn lên liên tục. Bạn cần cố gắng giữ máy ở một vị trí ổn
định là sẽ có hình ảnh đẹp.
Ví dụ dưới đây là một trường hợp tương tự. NTL chụp bằng máy dSLR D70 nhưng phương pháp thì không có gì
khác biệt. Nếu bạn có thắc mắc gì thì cứ tự nhiên nhé.
IX-12,
CHỤP ẢNH NỘI THẤT
7 lời khuyên cho chụp ảnh nội thất
1. Việc đầu tiên bạn cần phải có một ống kính tốt. Chất lượng quang học
phải tuyệt vời và nếu có thể thì nên dùng
tiêu cự cố định thay cho zoom. Ống kính tốt sẽ giúp bạn tránh được các lỗi biến dạng hình ảnh. Bạn có thể tháo kính UV để
tránh tuyệt đối lỗi bị loé sáng trên kính UV. Bạn phải đảm bảo ống kính của
mình thật sạch và nên dùng loa che nắng.
2. Thiết bị đi kèm máy ảnh số một
là chân máy. Một chân máy ảnh PRO sẽ giúp bạn rất nhiều từ việc tháo lắp thân máy ảnh, ống kính nhanh
gọn. Bạn cũng không nên quên giây bấm mềm hay điều khiển từ xa nhé.
3. Với một số tạp chí nhiếp ảnh chuyên nghiệp, nhất là trong lĩnh vực trang trí nội thất, thì bạn
nên sửa soạn cả một sê-ri ảnh chụp bằng phim dương bản 100 ISO đơn giản bởi vì đó là...truyền thống.
4. Để có thể thích nghi với độ tương phản của phim dương bản thì độ chênh sáng trong khuôn hình tối đa
là 2 khẩu độ sáng. Để giải quyết vấn
đề này thì bạn có thể dùng
thêm tấm phản xạ màu trắng bạc hay một tấm vải màu mỡ gà để chắn trước các cửa
sổ tạo nguồn sáng nhưng không năm trong khuôn hình. Nếu như bạn có một bộ đèn flash tốt
thì đó cũng là một giải pháp khá tiện lợi. Nên nhớ rằng chụp bằng phim kỹ thuật
số thì độ bù sáng là 0.
5. Ánh sáng đẹp nhất, lý tưởng nhất cho chụp ảnh nội thất lại chính là
ánh sáng tự nhiên: ánh sáng ban ngày. Nhưng trong tất cả mọi trường hợp nhất thiết phải tránh hiệu quả ảnh sáng từ một phía. Bạn
có thể sử dụng đèn flash qua phản xạ trần nhà hay một tấm phản xạ chứ không bao
giờ dùng flash trực tiếp nhé.
6. Một vấn đề mà bạn hay gặp phải
trong nội thất đó là trong một khuuon hình có quá nhiều nguồn sáng khác nhau với chất lượng ánh sáng
khác nhau. Điển hình là trong bếp
hay nhà tắm. Bạn có thể cố một cửa sổ với ánh sáng ban ngày 5 500K, đèn
ha-lô-gien 3 200K, đèn nê-ông với ánh sáng mầu không xác định hay một chiếc đeng chùm 2 700K. Giải pháp đầu tiên là tắt
đèn nê-ông, còn nếu bạn có tấm vải lọc mầu
hồng thì có thể che nguồn sáng này lại.
7. Để có thể chụp tốt ảnh nội thất thì bạn nên chụp trong tối thiểu 2
ngày để có thể biết rõ về ánh sáng ở nơi mình chụp ảnh. Chính sự thay đổi của ánh sáng này sẽ
mách cho bạn biết nên bắt đầu chụp ảnh từ
phòng khách hay nhà bếp?
IX-13,
CÂN CHỈNH MÀN HÌNH MÁY TÍNH CỦA BẠN
Như NTL đã nói đến trong một bài viết về tầm quan trọng của việc căn chỉnh mầu sắc cho màn hình máy tính của bạn
thì hôm nay bạn có thể kiểm tra lại chất lượng màn hình của mình bằng cách xem
băng mầu xám dưới đây. Nếu tất cả các ô mầu xám được
hiển thị rõ ràng và có sự khác biệt thì có nghĩa là màn hình của bạn đã được
căn chỉnh đúng.
Thân,
-------------------------------------------
Mặc dù các cảm biến quang học trên chip cảm quang diện tích bằng hay tương đồng nhưng tiến bộ của công nghệ CMOS của Canon cụ thể qua 2 cặp đời bodies nói trên vẫn cao hơn công gnhệ CCD của Nikon. Cụ thể là khi chụp ảnh, mode RAW hay JPEG, lưu và card, từ card copy nguyên gốc vào máy tính rồi xem nguyên mẫu (chưa được xử lý convert bằng các công cụ như C1, Breeze, Nikon View, Canon File Viewer , photoshop (7.0 or 8.0 CS)....) - nên lưu ý là chỉ dùng các tiện ích view ảnh để xem thông tin EXIF thì bạn sẽ thấy ngay là file ảnh của Canon luôn cho độ phân giải 180x180 dpi , còn của Nikon là 72x72 dpi.
Như vậy trên cùng một diện tích cảm quang, Khi lưu dạng thô, Thiết kế của CANON vẫn cho độ phân giải cao hơn các bodies của Nikon tương ứng mà không sử dụng các thuật toán nội suy (trường hợp test tốt nhất là dùng RAW format). Đây là một điểm mà mọi người đều bỏ qua khi so sánh các cặp bodies Canon và Nikon DSLR.
Do vậy tôi thấy nhận xét của bạn có vẻ quá chủ quan chăng ?
Việc chụp ảnh với tốc độ 1/4000 thực sự có cần thiết và có chính xác là sự nổi bật không ? Bạn nên lưu ý : Với các bodies mà cấu trúc cơ phận bên trong gần như 98% bằng nhựa thì việc màn trập đạt tốc độ 1/4000 chỉ là yếu tố mang tính thương mãi mà thôi. Tại sao ? Khi các bodies phần cơ học bằng nhựa, việc sử dụng tốc độ cao tr6n 1/3000 thường gây ra việc hư hay bung màng trập và gương phản chiếu. Hơn nữa người dùng amateur cũng rất ít khi đẩy lên trên tốc độ này vì họ rất ít có tình huống chụp cần tốc độ shutter cao như vậy.
Dân chơi ảnh lâu năm film hay số đều không thích dùng thêm CR-2. Tại sao ? Vì bạn sẽ tốn thêm từ 70-210.000 VNĐ (cụ thể ở VN) cho CR-2. Thật sự nếu là hiệu năng về năng lượng của Canon 300D hơn hẳn D70 vì 300D chỉ dùng một loại BP-511 và 300D có thể mua thêm Battery Grip để dùng liên tiếp 2 pin BP-511. Trong khi đó D70 không có grip bán thêm.
Tóm lại, hãy khoan kết luận hơn thua mà cái quan trọng là anh dùng như thế nào và xem xét đã kỹ càng từ nhiều góc độ chưa. Bạn nên biết các site reviews trên internet thường "gây nhiễu" thông tin. Ngoài ra chính hãng SX cũng tạo ra một số "lựu đạn, bom mìn" để ca ngợi SP của mình, gián tiếp hay trực tiếp chê SP hãng khác. Nếu muốn khuyên các bạn khác về so sánh thì bạn hãy khuyên người đó dùng thử đi và xem ảnh chụp với các đk khách quan tương đồng nhau, Ánh sáng, phối cảnh.... rồi nhận xét tự quyết định chứ bạn "phán" như thế có vẻ chủ quan và không công bằng , chính xác đấy.
Nguyễn Hoàng Ấn: NHIẾP ẢNH SỐ TOÀN TẬP - PHẦN 3
X, NHIẾP ẢNH - LÝ LUẬN PHÊ BÌNH
X-1, SO SÁNH CANON VÀ NIKON
Xem trên TTVNOL box nhiếp ảnh
và forum này thấy cậu có vẻ cổ xúy cho D70 quá, không biết có giống chuyện 1 moderator của dpreview
post unfairplay vụ D70 không ?
1. Nikon luôn đi sau Canon về công nghệ máy ảnh số.
2. Bạn có hiện đang sử dụng các bodies Canon 300D , 10D, hay D70, D100
không ? vì tất cả bài viết bạn gần như collect trên
mạng ở các site như dcreviews,
dpreview, outbackphoto..... và các hình ảnh bạn lấy để minh hoạ đều không do bạn chụp mà toàn lấy trên pbase.com và một số trang khác.
Nếu vào các forum của
photo.net, dpreview...(chắc chắn bạn cũng đã từng vào các site này) hoặc các
site tương tự, tôi nghĩ cần góp ý với
bạn như sau :
Những người nhiếp ảnh (amateur và Prof.)
khi sử dụng máy ảnh 35mm thường dùng hầu hết máy ảnh và ống kính thuộc hai hãng Canon và Nikon. Khi chuyển sang
máy số dang D-SLR thì 90% phải tiếp tục nâng cấp body máy số vẫn theo hiệu máy mình đang sử dụng vì trước
đó khi còn dùng máy SLR họ đã đầu tư khá (không nói là rất nhiều) cho các ống kính. Nếu
chuyển sang máy số mà phải bán lại hoàn toàn bodies film 35mm, và các lenses...
sau đó lại đi mua thân máy ảnh số của hiệu khác và ống kính của hiệu đó (để đạt
trở lại hiệu quả cao nhất về
tính tương thích và chất lượng hình ảnh, công
nghệ ....) thì gần như cực kỳ ít người dám làm
như vậy.
Vì sao : Vì khi mua thì 10đồng, khi bán chỉ có 4-6 đồng là thành công lắm
rồi, sau đó lại đầu tư thêm nhiều nữa cho máy số như bodies, lenses ,.... rồi thêm Máy tính, Memory cards,
và một mớ thứ linh tinh khác không thể thiếu. Phi lý nhỉ. Ai lại thế.
Do đó, người nhiếp ảnh (amateur cũng như Prof) 90 %
chọn cách chơi thêm máy ảnh số của hãng chế tạo body film 35mm mà mình đang xài để tận dụng
số lượng lenses (ống kính) hiện có, rồi tận dụng luôn cái body film đang xài để
làm backup (nếu đủ điều kiện tiền bạc và một vài lý do khác...) và số tiền đầu tư sang máy số đương nhiên "khả thi" hơn.
Mà khi xài rồi thì ít ai chịu chê cái máy mình đang xài khi nó là loại
semi-pro D-SLR. (tại sao thì dễ hiểu thôi mà)
Tôi may mắn sở hữu được cả Canon EOS 300D, EOS 10D và Nikon D100, D70 (
preorder và có ngay sau khi PMA 2004 bế mạc). Sử dụng , test chán chê rồi nên cũng gom góp được khá nhiều cái hay dở của các bodies nói trên. Do đó
tôi nghĩ rằng cần góp tiếng nói thêm cho
"chuyên mục này" qua một số phần bạn đã nhận xét ở trên.
Các đoạn trong vạch ngang là trích từ bài của bạn
-------------------------------------------------------------------------------------
1. Mạch điện tử cảm quang: Kết quả cân bằng.
Tuy hai máy dùng hai loại khác nhau nhưng điều này không phải là quan trọng tới chất lượng ảnh
lắm (Canon dùng CMOS, Nikon dùng CCD)? Nikon có ưu thế hơn chút xíu ở kích thước của mạch điện tử lớn hơn Canon.
--------------------------------------------------------------------------------------
+ Canon và NIKON dùng hai công nghệ chip cảm quang khác nhau, trong đó
CANON sử dụng công nghệ CMOS, Nikon dùng công nghệ CCD. Đối với các dòng máy của
Canon và Nikon được xem là các cặp được sản xuất để cạnh tranh nhau như Canon EOS
10D <> Nikon D100
Canon EOS 300D <> Nikon D70
Thì kết quả về mạch diện tử cảm quang chưa bao giờ gọi là bằng nhau được. Vì sao ?
Mặc dù các cảm biến quang học trên chip cảm
quang diện tích bằng hay tương đồng nhưng tiến bộ của công nghệ CMOS của
Canon cụ thể qua 2 cặp đời bodies nói trên vẫn cao hơn công gnhệ CCD của Nikon. Cụ thể là khi chụp ảnh, mode
RAW hay JPEG, lưu và card, từ card copy nguyên gốc
vào máy tính rồi xem nguyên mẫu (chưa được xử lý convert bằng các công cụ như C1, Breeze,
Nikon View, Canon File Viewer , photoshop
(7.0 or 8.0 CS)....) - nên lưu ý là chỉ dùng các tiện ích view ảnh để xem thông tin EXIF thì bạn sẽ thấy ngay
là file ảnh của Canon luôn cho độ phân giải 180x180 dpi , còn của Nikon là
72x72 dpi. Như vậy trên cùng một diện
tích cảm quang, Khi lưu dạng thô, Thiết kế của CANON vẫn cho độ phân giải cao hơn các bodies của Nikon tương ứng mà không sử dụng các thuật toán nội suy (trường
hợp test tốt nhất là dùng RAW format). Đây là một điểm mà mọi người đều bỏ qua khi so sánh các cặp bodies Canon và
Nikon DSLR.
Do vậy tôi thấy nhận xét của bạn có vẻ quá chủ quan chăng ?
-------------------------------------------------------------------------------------
10. Chế độ phơi sáng: Kết quả cân bằng.
Không có sự chênh lêch lớn dù Canon có chế độ DEP.
11. Màn chập: Lợi thế cho
Nikon
Canon: 1/4000 tới 30 giây, tốc độ chụp đèn flash 1/200. Chụp tự động 20
giây.
Nikon: 1/8000 tới 30 giây, flash 1/500, tự động từ 2-20 giây.
Nikon thắng điểm rõ ràng không chỉ ở tốc độ chụp cao mà căn bản ở khả
năng synchro-X ở 1/500!
------------------------------------------------------------------------------------
Việc chụp ảnh với tốc độ 1/4000 thực sự có cần thiết và có chính xác là sự nổi bật không ? Bạn
nên lưu ý : Với các bodies mà cấu trúc
cơ phận bên trong gần như 98% bằng nhựa thì việc màn trập
đạt tốc độ 1/4000 chỉ là yếu tố
mang tính thương mãi mà thôi. Tại sao ? Khi các bodies phần cơ học bằng nhựa, việc sử dụng tốc độ cao tr6n
1/3000 thường gây ra việc hư hay bung màng trập và gương phản chiếu. Hơn nữa người dùng amateur
cũng rất ít khi đẩy lên trên tốc độ này vì họ rất ít có tình huống chụp cần tốc
độ shutter cao như vậy.
Các máy SLR hay D-SLR (Canon 10D hay D100) vẫn có thể đạt tốc độ cao hơn 1/4000 nhưng tại sao nhà sản xuất không chế tạo trong khi họ dư sức làm vì cơ phận bằng cơ khí chịu đựng lực tác động tốt hơn so với bằng nhựa như 300D hay D70. Bạn có bao giờ
chụp thực sự bằng 1/8000 và 1/4000, hình ảnh kết quả khác nhau thấy được bằng mắt không ? lấy
gì chứng minh được ? (tốc độ viên đạn ?????)
-----------------------------------------------------------------------------------
14. Ắc-qui: Lợi thế cho
Nikon. Nikon có lợi thế hơn một chút về năng lượng của pin. Thêm khả năng dùng pin CR-2.
15. Kết nối với máy tính: Kết quả cân bằng Cả hai đều không có USB 2.0 và FireWire!
16. Kích thước, trọng lượng: Kết quả cân bằng Canon nhẹ hơn một chút và thấp hơn. Zoom 18-70
của Nikon khá nặng nhưng chất lượng cao.
--------------------------------------------------------------------------------------
15. Dân chơi ảnh lâu năm film hay số đều không thích dùng thêm CR-2. Tại sao ? Vì bạn
sẽ tốn thêm từ 70-210.000 VNĐ (cụ thể ở VN) cho CR-2. Thật sự nếu là hiệu năng về năng lượng của Canon 300D hơn hẳn D70 vì 300D chỉ dùng một loại BP-511 và
300D có thể mua thêm Battery Grip để dùng liên tiếp 2 pin BP-511. Trong khi đó D70 không có grip
bán thêm.
Hiệu năng sử dụng như bạn nhận xét cũng chỉ tương đối vì tùy thuộc bạn có sữ dụng LCD Preview hay
không, Khi chụp bạn dùng Zoom trên lense quá nhiều (cho composition, cứ zoom ra zoom vào mà
không quyết định được shot) . Tôi
đã từng dùng Canon 300D , tắt Preview LCD, Zoom cực ít, và chỉ với 1 pin kèm
máy tôi đã shot trên 500 shots đấy. Sure 100%.
16. Khi so sánh D-SLR ai lại so sánh Kit pack bao giờ, 18-50 Canon Kit
Lense và 18-70 nikon Kit thì đều
làm bằng nhựa, nặng hơn do có tiêu cự dài hơn ahy vỏ nhựa làm đặc hơn ? Trước đây tôi đã từng sử dụng cái lense AF-S G
24-85 f:3.5-4.5 ED IF của Nikon dù nhẹ hơn Nikon AF-D 24-85 2.8-4.0 IF nhưng chất lượng ảnh thì lại "cực kỳ" sharp
và trung thực hơn. So sánh bằng gram với ống kính đâu
nói lên được cái gì. Đâu có như ngày xưa được mà ống kính nặng thì
tốt hơn ống kính nhẹ.
-------------------------------------------------------------------------------------
Tóm lại, hãy khoan kết luận hơn thua mà cái quan trọng là anh dùng như thế nào và xem xét đã kỹ càng từ nhiều góc độ chưa. Bạn nên biết các site reviews trên internet thường "gây nhiễu" thông
tin. Ngoài ra chính hãng SX cũng tạo ra một số "lựu đạn, bom mìn" để
ca ngợi SP của mình, gián tiếp
hay trực tiếp chê SP hãng khác. Nếu muốn khuyên các bạn khác về so sánh thì bạn hãy khuyên người đó dùng thử
đi và xem ảnh chụp với các đk khách quan tương đồng nhau, Ánh sáng, phối cảnh.... rồi nhận xét
tự quyết định chứ bạn
"phán" như thế có vẻ chủ quan và không
công bằng , chính xác đấy.
---------------------------------------------------------
1. Nikon luôn đi sau Canon về công nghệ máy ảnh số.
Trả lời: Bạn có thật sự chắc chắn về vấn đề này không? bạn dựa trên
cơ sở nào để khẳng định như vậy? Kỹ thuật số đang trên đà phát triển như vũ bão. Các
tiêu chuẩn và chất lượng thay đổi
không ngừng. Ai dám khẳng định rằng chất lượng hình ảnh kiểu mẫu của các máy
Canon dCam trong năm 2003 sẽ vẫn là chuẩn mực cho ngày mai?
2. Bạn có hiện đang sử dụng các bodies Canon 300D , 10D, hay D70, D100
không ? vì tất cả bài viết bạn gần như collect trên
mạng ở các site như dcreviews,
dpreview, outbackphoto..... và các hình ảnh bạn lấy để minh hoạ đều không do bạn chụp mà toàn lấy trên pbase.com và một số trang khác.
Trả lời: Mình đã sử dụng Canon 300D, Nikon D100 và D70 với mục đích thử
nghiệm về kỹ thuật. Rất tiếc là bạn chưa có thời gian đọc kỹ lưỡng những bài test của mình.
Chúng không hề được "sưu tầm trên mạng" như bạn nói và nếu như mình có sử dụng nguồn tư liệu nào thì đều có ghi chú chi tiết để cho các bạn tiện theo dõi. Không phải lúc
nào mình cũng có đủ thời gian để vừa post bài về kỹ thuật và vừa chụp ảnh minh hoạ (mình thường
hay bổ sung sau, khi có dịp ) nên việc nghiên cứu lại ảnh thử nghiệm của những
người khác chụp là một giải pháp tạm thời. Xét về phương diện kỹ thuật số thì không có gì khác biệt quá
nhiều về kết quả.
Nếu vào các forum của
photo.net, dpreview...(chắc chắn bạn cũng đã từng vào các site này) hoặc các
site tương tự, tôi nghĩ cần góp ý với
bạn như sau :
Trả lời: Mình cũng có thỉnh thoảng vào các sites về nhiếp ảnh nhưng gần đây do hiện tượng post
bài theo cảm tính nhiều quá nên ít khi tham khảo chi tiết kỹ thuật mà thường chỉ để tìm kiếm ảnh minh hoạ mà thôi.
Những người nhiếp ảnh (amateur và Prof.)
khi sử dụng máy ảnh 35mm thường dùng hầu hết máy ảnh và ống kính thuộc hai hãng Canon và Nikon. Khi chuyển sang
máy số dang D-SLR thì 90% pah3i tiếp tục nâng cấp body máy số vẫn theo hiệu máy mình đang sử dụng vì trước
đó khi còn dùng máy SLR họ đã đầu tư khá (không nói là rất nhiều) cho các ống kính. Nếu
chuyển sang máy số mà phải bán lại hoàn toàn bodies film 35mm, và các lenses...
sau đó lại đi mua thân máy ảnh số của hiệu khác và ống kính của hiệu đó (để đạt
trở lại hiệu quả cao nhất về
tính tương thích và chất lượng hình ảnh, công
nghệ ....) thì gần như cực kỳ ít người dám làm
như vậy.
Vì sao : Vì khi mua thì 10đồng, khi bán chỉ có 4-6 đồng là thành công lắm
rồi, sau đó lại đầu tư thêm nhiều nữa cho máy số như bodies, lenses ,.... rồi thêm Máy tính, Memory cards,
và một mớ thứ linh tinh khác không thể thiếu. Phi lý nhỉ. Ai lại thế.
Do đó, người nhiếp ảnh (amateur cũng như Prof) 90 %
chọn cách chơi thêm máy ảnh số của hãng chế tạo body film 35mm mà mình đang xài để tận dụng số lượng lenses (ống kính) hiện có, rồi tận dụng luôn cái
body film đang xài để làm backup (nếu đủ điều kiện tiền bạc và một vài lý do khác...) và số tiền đầu tư sang máy số đương nhiên "khả thi" hơn.
Mà khi xài rồi thì ít ai chịu chê cái máy mình đang xài khi nó là loại
semi-pro D-SLR. (tại sao thì dễ hiểu thôi mà)
Trả lời: Trong các bài test mình chỉ đề cập tới khía cạnh kỹ thuật và chất lượng của
máy ảnh chẳng hạn mà thôi. Việc đầu tư và sử dụng như thế nào lại là vấn đề của từng cá nhân. Không phải là cứ thấy ở
trên thị trường xuất hiện một loại máy ảnh mới được ca ngợi là bán hết đồ cũ đi để mua ngay. Máy ảnh không giống thời
trang chút nào cả. Bạn có đồng ý với mình không? Bạn thiên về cảm tính quá nhiều khi nói rằng không thể chấp nhận những yếu điểm của chính chiếc máy mà mình đang sử dụng. Dù bạn có chấp nhận
hay không thì những yếu điểm này vẫn tồn tại một cách khách quan. Mà xét cho cùng có gì là
hoàn hảo 100%? Cái chính là mình biết cách khai thác những điểm mạnh của máy ảnh
chứ không phải đem chung ra...khoe.
Tôi may mắn sở hữu được cả Canon EOS 300D, EOS 10D và Nikon D100, D70 (
preorder và có ngay sau khi PMA 2004 bế mạc). Sử dụng , test chán chê rồi nên cũng gom góp được khá nhiều cái hay dở của các bodies nói trên. Do đó tôi
nghĩ rằng cần góp tiếng nói thêm cho
"chuyên mục này" qua một số phần bạn đã nhận xét ở trên.
Trả lời: Nghe bạn nói mà mát cả ruột nhé bởi vì
không phải ai cũng có thể sở hữu nhiều máy ảnh tốt và đắt tiền như thế. Bạn chắc có nhiều nhu cầu về chụp ảnh lắm? Nếu bạn là nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp nữa thì thật là may mắn
cho HNC. Liệu bạn có thể giúp mình post vài bức ảnh chụp mẫu của từng loại máy
nói trên không? để chúng mình cùng nhận xét và đánh giá chính xác hơn
nữa.
+ Canon và NIKON dùng hai công nghệ chip cảm quang khác nhau, trong đó
CANON sử dụng công nghệ CMOS, Nikon dùng công nghệ CCD. Đối với các dòng máy của
Canon và Nikon được xem là các cặp được sản xuất để cạnh tranh nhau như Canon EOS
10D <> Nikon D100
Canon EOS 300D <> Nikon D70
Thì kết quả về mạch diện tử cảm quang chưa bao giờ gọi là bằng nhau được. Vì sao ?
Trả lời: Việc tranh luận về khả năng và chất lượng của hai loại mạch điện
tử cảm quang CCD và CMOS luôn là vấn đề nóng bỏng từ nhiều năm nay. Trong cuộc chiến chưa ngã ngũ này
thì câu trả lời sẽ do sự
phát triển của kỹ thuật cùng với thời gian quyết định. Tạm thời bạn có thể tham khảo ở những
links kỹ thuật chuyên ngành dưới đây. Trong phạm vi một bài viết về nhiếp ảnh mà trình bày quá kỹ lượng về công nghệ kỹ thuật số e lạc sang đề tài khác.
http://www.siliconimaging.com/cmos_fundamentals.htm
Mặc dù các cảm biến quang học trên chip cảm quang diện tích bằng hay tương đồng nhưng tiến bộ của công nghệ CMOS của Canon cụ thể qua 2 cặp đời bodies nói trên vẫn cao hơn công gnhệ CCD của Nikon. Cụ thể là khi chụp ảnh, mode RAW hay JPEG, lưu và card, từ card copy nguyên gốc vào máy tính rồi xem nguyên mẫu (chưa được xử lý convert bằng các công cụ như C1, Breeze, Nikon View, Canon File Viewer , photoshop (7.0 or 8.0 CS)....) - nên lưu ý là chỉ dùng các tiện ích view ảnh để xem thông tin EXIF thì bạn sẽ thấy ngay là file ảnh của Canon luôn cho độ phân giải 180x180 dpi , còn của Nikon là 72x72 dpi.
Trả lời: Rất tiếc ở đây bạn lại có một nhầm lẫn căn bản về kỹ thuật số. Đúng là độ phân giải trong ảnh
chụp của Canon 300D là 180 ppi (pixels per inch) chứ không phải "dpi -
dots per inch" là khái niệm điểm của kỹ thuật in ấn. Và trong thuật ngữ kỹ
thuật số người ta nói về độ phân giải của một tấm ảnh bằng số pixel trên đơn
vị tuyến tính "inch" chứ không phải là
"inch...vuông" đâu nhé. Bản thân trong cấu tạo của các CCD và CMOS
thì các tế bào cảm quang lại có hình chữ nhật chứ không phải là hình vuông giống
như hiển thị của màn hình máy tính.
Như vậy trên cùng một diện tích cảm quang, Khi lưu dạng thô, Thiết kế của CANON vẫn cho độ phân giải cao hơn các bodies của Nikon tương ứng mà không sử dụng các thuật toán nội suy (trường hợp test tốt nhất là dùng RAW format). Đây là một điểm mà mọi người đều bỏ qua khi so sánh các cặp bodies Canon và Nikon DSLR.
Trả lời: Đúng là số pixel càng nhiều thì ảnh càng chi tiết nhưng chất lượng hình ảnh cho ra bởi các CCD hay CMOS
còn phụ thuộc rất nhiều vào chương trình xử lý tín hiệu điện tử của từng hãng nữa. Độ phân giải
180 ppi của Canon không làm nên sự khác biệt mà mắt con người có thể phân biệt
được (giống như bạn có nói về tốc độ của một viên đạn nào đó...) Thêm nữa độ phân giải mới chỉ là một
yếu tố quyết định chất lượng của ảnh mà thôi, còn một yếu tố nữa rất quan trọng đó là "chiều sâu" của mầu sắc. Khi ta nói về độ phân giải thì thường hay có liên quan đến kích thước của hình ảnh.
Do vậy tôi thấy nhận xét của bạn có vẻ quá chủ quan chăng ?
Trả lời: Thật sự đó là nhận xét của cá nhân mình với
những hiểu biết còn hạn hẹp về kỹ thuật số, dựa trên việc so sánh về kỹ thuật. Nếu bạn có những thông tin chi tiết hơn thì chúng
mình sẽ cùng trao đổi
tiếp nhé.
Việc chụp ảnh với tốc độ 1/4000 thực sự có cần thiết và có chính xác là sự nổi bật không ? Bạn nên lưu ý : Với các bodies mà cấu trúc cơ phận bên trong gần như 98% bằng nhựa thì việc màn trập đạt tốc độ 1/4000 chỉ là yếu tố mang tính thương mãi mà thôi. Tại sao ? Khi các bodies phần cơ học bằng nhựa, việc sử dụng tốc độ cao tr6n 1/3000 thường gây ra việc hư hay bung màng trập và gương phản chiếu. Hơn nữa người dùng amateur cũng rất ít khi đẩy lên trên tốc độ này vì họ rất ít có tình huống chụp cần tốc độ shutter cao như vậy.
Các máy SLR hay D-SLR (Canon 10D hay D100) vẫn có thể đạt tốc độ cao hơn 1/4000 nhưng tại sao nhà sản xuất không chế tạo trong khi họ dư sức làm vì cơ phận bằng cơ khí chịu đựng lực tác động tốt hơn so với bằng nhựa như 300D hay D70. Bạn có bao giờ chụp thực sự bằng 1/8000 và
1/4000, hình ảnh kết quả khác nhau thấy được
bằng mắt không ? lấy gì chứng minh được ? (tốc độ viên đạn ?????)
Trả lời: Ở đây bạn lại không đọc kỹ bài viết của mình rồi nhé. Ưu
thế của D70 nằm ở tốc độ synchro-X 1/500 chứ không phải chỉ vì tốc độ 1/8000
đâu nhé. Mình đã có ảnh chụp thử với 300D ở tốc độ 1/4000 rồi đấy, ở ngoài trời
nắng, ống kính 50 mm, f/1,8. Còn chuyện thân máy bằng nhựa và bằng kim loại ấy
mà thì bạn đừng lo nhé vì chiếc D70 sẽ không bị...vỡ vì tốc độ 1/8000 đâu.
Dân chơi ảnh lâu năm film hay số đều không thích dùng thêm CR-2. Tại sao ? Vì bạn sẽ tốn thêm từ 70-210.000 VNĐ (cụ thể ở VN) cho CR-2. Thật sự nếu là hiệu năng về năng lượng của Canon 300D hơn hẳn D70 vì 300D chỉ dùng một loại BP-511 và 300D có thể mua thêm Battery Grip để dùng liên tiếp 2 pin BP-511. Trong khi đó D70 không có grip bán thêm.
Trả lời: Ưu điểm của bộ pin "chữa cháy" CR-2 là ở
chỗ khi bạn đến những nơi mà không tìm đâu ra nguồn điẹn để sạc pin trong khi lại cần chụp ảnh
ngay. Nếu bạn so sánh việc tốn mấy trăm nghìn cho một bộ pin CR-2 dự trữ thì bạn
có thể cho mình biết giá mua một bộ "grip" cho 300D là bao nhiêu triệu đồng được
không? D70 không thể lắp thêm "grip" chứ không phải hãng Nikon không
làm "grip" cho D70 nhé.
Hiệu năng sử dụng như bạn nhận xét cũng chỉ tương đối vì tùy thuộc bạn có sữ dụng LCD Preview hay
không, Khi chụp bạn dùng Zoom trên lense quá nhiều (cho composition, cứ zoom ra zoom vào mà
không quyết định được shot) . Tôi
đã từng dùng Canon 300D , tắt Preview LCD, Zoom cực ít, và chỉ với 1 pin kèm
máy tôi đã shot trên 500 shots đấy. Sure 100%.
Trả lời: Mình cũng đồng ý kiến với bạn về chuyện tương đối trong thử nghiệm năng lượng của pin. Nhưng
lợi thế của máy ảnh số là có thể kiểm tra ngay kết quả chụp mà bạn lại không cần dùng LCD thì
phí quá.
Khi so sánh D-SLR ai lại so sánh Kit pack bao giờ, 18-50 Canon Kit
Lense và 18-70 nikon Kit thì đều
làm bằng nhựa, nặng hơn do có tiêu cự dài hơn ahy vỏ nhựa làm đặc hơn ? Trước đây tôi đã từng sử dụng cái lense AF-S G
24-85 f:3.5-4.5 ED IF của Nikon dù nhẹ hơn
Nikon AF-D 24-85 2.8-4.0 IF nhưng chất lượng ảnh thì lại "cực kỳ" sharp
và trung thực hơn. So sánh bằng gram với ống kính đâu
nói lên được cái gì. Đâu có như ngày xưa được mà ống kính nặng thì
tốt hơn ống kính nhẹ.
Trả lời: Bạn lại không đọc kỹ bài viết của mình rồi. Mình không hề so sánh ống kính của 300D và D70 với nhau. Đơn
giản chỉ có nhận
xét là ống kính mới của Nikon nặng nhưng hình ảnh đẹp vậy thôi. Trọng lượng là một yếu tố khá quan trọng khi bạn đi chụp ảnh ngoài
trời và đi xa đấy. Ai lại đem trọng lượng vật lý ra để đánh giá chất lượng
quang học bao giờ?
Tóm lại, hãy khoan kết luận hơn thua mà cái quan trọng là anh dùng như thế nào và xem xét đã kỹ càng từ nhiều góc độ chưa. Bạn nên biết các site reviews trên internet thường "gây nhiễu" thông tin. Ngoài ra chính hãng SX cũng tạo ra một số "lựu đạn, bom mìn" để ca ngợi SP của mình, gián tiếp hay trực tiếp chê SP hãng khác. Nếu muốn khuyên các bạn khác về so sánh thì bạn hãy khuyên người đó dùng thử đi và xem ảnh chụp với các đk khách quan tương đồng nhau, Ánh sáng, phối cảnh.... rồi nhận xét tự quyết định chứ bạn "phán" như thế có vẻ chủ quan và không công bằng , chính xác đấy.
Trả lời: Việc kết luận D70 hay hơn
300D là ý kiến chủ quan của cá nhân mình dựa trên các yếu tố kỹ thuật đơn thuần và những thử nghiệm ảnh. Bạn có thể trao đổi
với mình đánh giá của bạn được không? Như thế chúng mình sẽ cùng hoàn thiện hơn
đấy.
Nhiếp ảnh lại là bộ môn nghệ thuật cần đến yếu tố con người và sáng tạo. Bạn có một chiếc máy ảnh tốt nhất trên thế giới nhưng chỉ biết sử dụng nó mà không biết dùng nó để sáng tạo thì nội dung ảnh chụp ra
chẳng hơn gì mấy cái máy ảnh tự động. Thêm nữa việc dùng loại máy
nào? Cần chức năng gì còn phụ thuộc vào nhu cầu của bạn. Những điểm mạnh hay yếu của kỹ thuật là có tồn tại. Vấn đề là bạn sẽ khai thác chúng như
thế nào để có kết quả tốt cho mình mà thôi.
Vậy nhé. NgườiSàigòn.
Trả lời: Rất vui được làm quen và học hỏi về nhiếp ảnh cùng với bạn.
NTL
-------------------------------
X-2, NOISE - VỠ HẠT ẢNH
BlackMask
Theo em biết chụp phim độ nhậy cao bị
noise là do kích thước hạt bạc to -> vỡ hạt (noise). Nhưng sao qua
Digital thì khi chụp ở ISO cao cũng bị
noise trong khi kích thước và mật độ sensor không thay đổi. Bác có thể giải
thích cho em cơ chế này với.
Thanks Bác.
Hi Blackmask,
Câu hỏi của em rất thú vị và để trả lời nó thật chính xác thì cần kiến thức uyên thâm của một...kỹ sư điện tử (dân Bách khoa nhà ta có ai thạo vấn đề này không nhỉ?) chứ một nhiếp ảnh gia chưa chắc đã hiểu được cặn kẽ vấn đề của kỹ thuật số này. NTL sẽ cố gắng giải thích
trong khả năng có hạn của mình, rất mong bạn bạn khác hưởng ứng.
Điều đầu tiên cần phải nói
là hiện tượng nổi hạt trong phim cổ điển là do bởi 2 lý do:
- Do bởi hiện tượng không phân bố đều về mật độ của các hạt nhũ
tương, như thế sẽ có những hạt không được phơi sáng. Nếu như các hạt nhũ tương này được phân bố đều nhưng với mật độ thưa thì nó cũng tạo nên "noise". Hiện tượng này không
hề làm giảm chất lượng của
phim âm bản và có thể được khắc phục khi phóng ảnh.
- Do bởi hiện tượng phân bố không đều của các hạt nhũ tương. Đây là "lỗi" mang tính cấu tạo của phim và không
thể sửa chữa được.
Nhưng lỗi hạt này không làm giảm
mật độ "densité" cần thiết của hình ảnh mà chỉ có ảnh hưởng tới cấu trúc của nó mà thôi. Ảnh
phóng càng to thì càng nhìn thấy hạt nổi rõ.
Kỹ thuật số thay thế
phim bằng mạch cảm quang điện tử Solid State Sensor có khả năng nhận và chuyển
năng lượng ánh sáng thành tín hiệu số và cuối cùng là hình ảnh. Hai loại Sensor
thông dụng nhất là CCD và CMOS có cách xử lý tín hiệu khác nhau nhưng chúng đều tuân theo quá trình làm việc sau đây:
Sensor --> Chuyển đổi năng lượng ánh sáng/tín hiệu số -->
Interpolation mầu --> Cân bằng trắng WB --> Hiệu chỉnh mầu sắc -->
Hiệu chỉnh đường viền ảnh
--> Nếu tín hiệu chuyển sang thành ảnh --> Ghi lên thẻ nhớ
Mỗi mạch cảm quang điện tử sensor được tạo nên bởi một ma trận các điểm
pixel (photosite) mà kích thước của sensor cũng như của mỗi pixel thay đổi theo từng loại sensor. Các
pixel nhận ánh sáng theo hoạt động "đóng/mở" dưới sự điều khiển của mạch điện tử. Tín hiệu của hình ảnh
là kết quả chung cuộc của tất
cả các năng lượng đã thu được trên từng pixel (sau đó được "kích"
thêm trước khi chuyển tới phần xử lý tiếp theo). Như thế ta thấy rằng năng lượng
thu được của mỗi một "photosite" phụ thuộc vào kích thước của nó (pixel
càng lớn thì càng nhạy) thế nhưng điều này lại đi ngược với việc tăng độ phân giải
của hình ảnh trên một sensor có kích thước cố
định: số điểm ảnh pixel càng nhiều thì độ nhạy của sensor càng kém đi. Với mỗi một sensor thì ta có một
độ nhiễu mặc định lúc ban đầu "noise floor". Khả năng nhận tín hiệu của
sensor được đánh giá bằng khoảng cách giữa "satured noise" và
"noise floor" gọi là "dynamic range". Để đánh giá tín hiệu
của một hình ảnh kỹ thuật số ta dùng khái niệm "Signal/Noise Ratio".
Trong quá trình hoạt động rất phức tạp của sensor này đã làm phát sinh
nhiều hiện tượng phụ có tính
tiêu cực, làm ảnh hưởng trực tiếp tới
chất lượng của hình ảnh: NOISE! Tránh đi sâu vào những chi tiết kỹ thuật điện tử mà mình không thật thành thạo,
NTL xin nhường phần này cho các "cao thủ Bách khoa"
Như thế ta có thể thống kê những
yếu tố đã tạo nên nhiễu ảnh
"Noise" nằm ngay trong sensor như sau:
1. THERMAL NOISE: đây là hiện tượng các điện tử bị kích thích bởi một
nhiệt độ nhất định trong lớp si-li-côn của sensor.
2. GHOST NOISE: nhiễu được tạo bởi sự dao động của dòng điện khi đi qua
vùng "déplétion" nơi trao đổi điện tử giữa quang năng và tín hiệu điện tử.
3. FLICKER NOISE (hay con gọi là 1/f Noise): là nhiễu của dòng điện
trong trở kháng hay trong vùng "déplétion".
4. PixelResponse NonUniformity: đây là nhiễu được tạo nên bởi độ nhạy
khác nhau giữa các pixel của sensor. Về kỹ thuật ta có thể loại bỏ được.
5. FULL WELL CAPACITY: khi mà thời gian phơi sáng kéo
dài sẽ dẫn tới hiện tượng bão
hòa về cảm nhận quang năng của
mỗi pixel và như thế nó sẽ "đổ"
năng lượng thừa sang pixel bên cạnh. Như thế nhiễu tăng lên và "dính" chặt với
tín hiệu ảnh Signal.
6. PHOTONIC NOISE: đây là hiện tượng nằm trong bản chất tự nhiên
(nature uantique de la lumière) của ánh
sáng. Nhiễu này luôn gắn liền và
nó cũng là một phần không thể tách khỏi của tín hiệu ảnh cần thiết (useful signal)
Khi bạn tăng độ nhạy ISO thì có nghĩa là mạch điện tử sẽ "kích"
đồng thời cả signal và noise. Với năng lượng ánh sáng yếu thì việc kích tín hiệu này cần rất mạnh và sẽ
làm cho ảnh bị nhiễu hơn.
Trong việc tìm cách giải quyết nhiễu "noise" của ảnh kỹ thuật số thì hiểu biết về khả năng thị giác của con người là rất cần thiết và quan trọng vì mắt người có giới hạn trong
khả năng phân biệt nhiễu của hình ảnh.
Một vài tìm hiểu ban đầu của cá nhân mình, chắc chắn sẽ không tránh khỏi
thiếu sót, NTL mong nhận được
ý kiến đóng góp của các bạn để
cùng hoàn chỉnh chuyên đề này.
Bravo bác NTL
Ko biết bác có phải chuyên
ngành điện tử hay không nữa. Mặc dù khác nhau về thuật ngữ nhưng giải thích của bác về noise là chính xác,
ngoài ra có nhiều diều tôi cũng không biết hoặc chưa hiểu cặn kẽ.
Ngắn gọn lại thì mỗi sensor đều có noise va độ nhậy sáng nhất đinh, nhiều hay ít là do giá tiền quyết định, tiền nào của nấy Còn giá trị
ISO là quy định độ phóng đại tín hiệu thu được từ sensor.
Ví dụ như nếu thực tế tín hiệu ánh sáng là 10, trong đó noise là 1
tại ISO 100. Nếu chọn ISO200 thì lúc đó
tín hiệu sẽ là 20, noise là 2. ISO 800 thì tín hiệu sẽ là 80, noise sẽ là 8. Như vậy là ở ISO cao thì noise sẽ được khuyếch đại lên và đến mức nhìn thấy được (giống như tăng volume
của một cái băng rè). Tuy
nhiên noise sẽ chủ yếu được nhìn thấy ở nơi có ít ánh
sáng vì lúc đó tín hiệu và noise là xấp xỉ
nhau. Với viec chụp ảnh dùng máy số thì những nguồn tạo ra noise là:
1. chụp ISO cao.
2. chụp trong điều kiện ánh sáng yếu.
3. Đo sáng không chính xác.
4. Cân bằng màu không chính xác cũng gây ra noise ở từng channel mầu.
Mong các bác tiếp tục đóng góp ý kiến.
X-3, XỬ LÝ BỤI BÁM TRÊN SENSOR
Không chỉ ở Việt nam mà ngay cả ở các nước châu Âu thì vấn đề lau senor khi bị bám bụi cho đến thời điểm này luôn đặt ra một câu hỏi lớn :
nên tự lau lấy hay là đem đến dịch
vụ bảo hành ? Câu trả lời cũng không dễ dàng vì tự lau lấy sensor là bạn tự chấp
nhận mọi rủi ro không nằm trong các điều khoản của bảo hành, còn đem ra dịch vụ thì cũng đồng nghĩa với việc
trả thêm tiền và một số ngày không có
máy để dùng. Cho đến thời điểm hiện tại thì
chỉ có một số nhà chế tạo máy ảnh công bố
chính thức các phương tiện được họ chấp nhận cho việc lau sensor mà thôi, hai chàng khổng lồ là Canon và Nikon vẫn
im lặng. Xem trên site chính thức của họ thì phương pháp lau sensor duy nhất được thừa nhận là thổi bụi bằng
quả bóng cao su mà kết quả của nó không phải
lúc nào cũng như ý. Trên mạng đã xuất hiện
rất nhiều kinh nghiệm lau sensor
rất thực tế và có thể học tập, NTL
xin được tóm tắt ở đây những trang chính để bạn tham khảo :
By Nicholas R; By Thom Hogan
From The Luminous Landscape; From gregscott.com
By Bob Atkins at photo.net; By Moose Peterson
From plantneil.com ; From Toldeo-Bend.com
From PictureLineNews.com ; From pixelpixel.org
Như bạn đã đọc được trong những
trang web trên đây thì mọi người hay nói đến những dụng cụ nhà nghề như “Eclipse
Cleaning System Solution & Wipes” hay
“Sensor Swab”…chúng không có gì là quá đặc biệt cả, hiện tại bạn có thể mua trực
tiếp ngay tại các sites sau
đây:
Digital Camera Cleaning Supplies
Photographic Solutions
Hiện đang sử dụng chiếc
dSLR Nikon D70 và đã tự làm sạch CCD khá nhiều lần, NTL xin được trao đổi kinh nghiệm sử dụng và bảo quản dSLR của
mình cùng các bạn.
Hỏi : Có cách nào để giữ cho Sensor không bị bẩn ?
Trả lời : Như NTL đã đề cập tới trong bài Bảo dưỡng Sensor của dSLR
thì cho dù bạn cố gắng đến thế nào đi chăng nữa thì sau một thời gian Sensor
của bạn cũng sẽ bị dính bụi. Trong trường hợp của mình thì thời gian là sau 5
tháng sử dụng.
Hỏi : làm thế nào để biết là sensor bị bẩn ?
Trả lời : rất đơn giản, bạn chỉ cần quan sát
kỹ lưỡng là sẽ thấy ngay những vết bẩn mầu đen hay mầu xám xuất hiện rất vô lý trong các vùng ảnh sáng
rõ. Để có thể biết chính xác hơn thì bạn chỉ việc chụp ảnh một tờ giấy trắng rồi
quan sát trên màn hình máy tính để định vị các vết bẩn theo phương pháp đã được hướng dẫn ở trên.
Hỏi : Tôi nên đợi đến
khi Sensor bị bẩn thì mới lau hay có thể tiến hành bảo quản thường xuyên ?
Trả lời : theo kinh nghiệm của cá nhân mình, nếu như bạn hay thay đổi ống kính khi chụp ảnh, thì giải
pháp khôn ngoan nhất là tiến
hành thổi bụi bằng quả bóng cao su ít nhất mỗi tháng 1 lần tùy theo tần suất sử
dụng máy. Việc làm này sẽ giúp bạn tránh được những vết bẩn đọng lâu ngày khó lau sạch và giảm thiểu
tối đa số lượng ảnh phải dùng PS tẩy vết bụi của sensor trên ảnh.
Hỏi : trên thị trường hiện tại đã có loại máy dSLR nào có khả năng tự
lau bụi trên Sensor chưa ?
Trả lời : tại hội chợ bán hàng Photokina vừa diễn ra ở Cologne (Đức)
thì hãng Olympus đã cho ra chiếc
dSLR E-300 với kỹ thuật « Supersonic Wave Filter » (gọi nôm na là hệ thống quét
bụi bằng sóng siêu âm) nó được khởi động mỗi lần bạn bật máy và các bụi bẩn rơi xuống sẽ được giữ lại bằng một hệ thống có độ
dính cao. Trước đó thì chiếc
dSLR PRO E-1 cũng đã ứng dụng kỹ thuật này.
Hỏi : Loại máy dSLR của tôi dang dùng đòi hỏi phải có « Adaptator » mỗi
khi tiến hành lau sensor, tôi đã
không mua nó kèm theo máy và giá bán lẻ cũng khá đắt, liệu có cách nào lau
sensor mà không cần đến « Adaptator » hay không
?
Trả lời : Cách an toàn nhất vẫn là tiến hành lau sensor theo hướng dẫn Manual của
máy nhưng trong trường hợp bất đắc dĩ thì bạn
vẫn có thể tiến hành lau Sensor bằng
nhiều cách khác. Sự rủi ro
duy nhất khi không dùng « adaptator » là màn chập có thể sập xuống bất kỳ và vướng
vào chiếc chổi chuyên dụng mà bạn
đang dùng để lau sensor, như thế có thể dẫn tới việc hỏng các lam kim loại rất mỏng này.
Tuy nhiên dùng « adptator » không phải là an toàn 100% trong trường hợp…mất
điện đột xuất ! Như thế còn 2 cách sau để lau
sensor (trước khi thử nghiệm bạn nên sạc đầy pin nhé) :
- Đặt máy ảnh ở chế độ
M, tốc độ B và dùng dây bấm mềm để
khóa gương lật sau đó tiền hành lau sensor.
- Dùng chế độ chụp ở 30 giây.
NTL xin được nhắc lại rằng đây là những phương pháp có độ rủi ro rất cao và bạn nên cân nhắc thận trọng
tất cả thao tác và tình huống có thể xảy ra trước khi tiến hành nhé.
Trong phương pháp thứ 1 thì bạn không
sợ màn chập sẽ rơi xuống bất thình lình (trừ
khi ổ trập hỏng bất chợt !) nhưng nên lưu ý là sensor vẫn hoạt động
trong suốt thời gian bạn thao tác đấy nhé. Như thế bạn nên hạn chế thời gian tối đa dùng để lau sensor là 3
phút.
Cách này tiện cho việc thao tác bằng chổi lau chuyên dụng.
Trong phương pháp thứ 2 (khi bạn không có dây
bấm mềm và không tin tưởng vào
việc giữ nút bấm ở chế độ chụp B) thì ưu điểm của nó nằm trong việc máy ảnh hoạt động
bình thường, thời gian lộ sáng của sensor ngắn, thích nghi với việc thổi bụi bằng
bóng cao su. Nhưng nhược điểm của nó là bạn
sẽ phải thao tác nhiều lần cho đến khi sensor sạch hoàn toàn. Một chiếc đồng hồ bấm giây dùng trong thể thao sẽ rất
có ích để tính thời gian chính xác.
Với kinh nghiệm của mình thì NTL hầu như xử lý được các bụi bẩn bám trên CCD đơn giản bằng cách xịt hơi chính xác
và đều khắp trên mặt phẳng của
CCD. Với D70 thì bạn hoàn toàn có thể khóa gương lật để lau CCD.
Bạn nên xác định trước điểm xuất phát và điểm kết thúc khi thổi bụi trên sensor, NTL làm từ
trái qua phải, từ trên xuống dưới. Cách dùng quả bóng cao su như sau :
- Bạn hướng đầu thổi của nó vào một điểm trên sensor, bóp mạnh và dứt
khoát để tạo luồng khí hiệu quả. Nới lỏng tay và làm tiếp nhiều lần như thế. NTL thổi bụi từ 5-10 lần
cho 1 vị trí của sensor.
- Sau khi làm một lần hết diện
tích của sensor bạn trả máy về chế độ bình thường, thao tác chụp vài kiểu ảnh bất
kỳ rồi tiến hành thổi bụi thêm một
lần nữa.
- So sánh kết quả của hình ảnh chụp
trước khi lau sensor và sau khi thao tác, bạn sẽ thấy sự khác biệt. Việc làm
này đòi hỏi sự kiên nhẫn và tỉ mỉ, nếu sensor chưa sạch thì bạn cần làm thêm
vài lần nữa. Vậy thôi.
Hỏi : sau khi tôi tiến
hành lau sensor bằng dung dịch chuyên dụng thì bề mặt của sensor có nhiều vết và ảnh chụp không đẹp, tôi cần phải làm gì ?
Trả lời : dung dịch dùng để lau sensor có độ bay hơi rất cao, hiện tượng có vết trên mặt sensor chứng tỏ là bạn thao tác chưa dứt khoát.
Bạn cần phải làm lại và Sensor sẽ sạch thôi. Kinh nghiệm cá nhân là bổ
ích nhất.
Hy vọng với bài viết ngắn
này NTL đã đem lại cho bạn những thông tin và kinh nghiệm cá nhân bổ ích. Trong
tương lai chắc chắn chúng ta sẽ không
còn phải bận tâm về vấn đề này nữa.
X-4, KHẨU ĐỘ SÁNG
Mình đang quan tâm vấn đề chụp ảnh ngoài trời giữ được màu thật như mắt nhìn thấy, nên tìm được một vài bài về Exposure Control, trong đó có bài sau thấy dễ
đọc, giới thiệu với mọi người:
Xin tóm lược như sau, nếu có gì chưa đúng hoặc thiếu, các bạn bổ sung:
Trong một số trường hợp chụp ảnh dưới ánh sáng mặt trời, ta thu được ảnh
không đúng màu sắc thật, ví dụ màu trắng hoặc màu đen lại thành màu xám nhờ nhờ.
Vấn đề là máy ảnh điều chỉnh sai khẩu độ sáng do ước lượng sai cường
độ nguồn sáng chiếu lên cảnh vật.
Bạn có thể sẽ thắc mắc rằng hiện nay có bao máy ảnh trang bị chức năng
đo sáng cực kỳ hiện đại, việc gì phải bận tâm nữa.
Đúng thế, đa số trường hợp máy ảnh
loại tốt thường thực hiện rất tốt việc đo sáng, nhưng cũng vẫn có những trường hợp xảy ra làm chúng ta phải
tự đo sáng và quyết định khẩu độ sáng cho
máy ảnh.
Nếu đối tượng chụp của
chúng ta quá sáng hoặc quá tối thì tông màu của ảnh sẽ bị máy nhận sai.
Ánh sáng khi chiếu vào một vật có màu trắng
thì sẽ bị phản xạ rất mạnh (cao là 90%) do vậy ánh sáng phản xạ đi tới ống kính
của ta có cường độ cao hơn bình thường (tông màu trung gian
phản xạ 18%). Nhưng một vật tối màu, ví dụ màu
đen thì lại hấp thụ tốt ánh sáng nên phản xạ lại lượng ánh sáng yếu (thấp là 4%). Ánh sáng phản xạ từ vật tối
màu sẽ đến ống kính rất ít, do vậy
chúng ta nhận thấy tối.
Chức năng đo sáng của máy ảnh nhận biết cường độ ánh sáng đơn thuần thông qua lượng ánh sáng phản chiếu từ vật thể, chứ nó không có khả năng nhận biết bản chất phản xạ hoặc hấp thu ánh sáng cụ thể
của vật thể đó. Mà ta đã biết rằng
các vật thể khác nhau có
thể phản xạ ở mức độ khác và rất khác nhau.
Vậy, máy ảnh có cơ chế gì để đoán được cường độ ánh sáng thật chiếu vào cảnh vật cần chụp?
Thông thường, máy ảnh quy tất cả mọi vật thể trong tầm ngắm của nó đều cùng một khả năng phản xạ ánh sáng là 18%.
Con số 18% là giá trị trung gian của khả năng phản xạ hai màu đen và trắng.
Ví dụ, khi ta nhắm vào một viên than đen xì có độ phản xạ ánh sáng là
4% thì máy ảnh chỉ hiểu rằng lượng ánh sáng phản xạ từ viên than đó đi tới ống
kính là tương đương 18% nguồn sáng gốc đang chiếu vào vật thể, chứ không phải 4%. Kết quả là máy ảnh ước lượng thiếu sáng, nên ra lệnh mở khẩu độ sáng lớn, và ảnh
của viên than trở nên không đen.
Có nhiều cách để chủ động bảo
máy ảnh điều chỉnh đúng khẩu độ sáng
và một trong những cách đơn giản và hay sử dụng là dùng Grey Card.
Grey Card là một tấm có màu xám phản chiếu đúng 18% ánh sáng đập vào nó. Cách dùng đơn giản, chỉ việc đưa tấm xám này ra trước ống kính sao cho phủ toàn
bộ khung ngắm và phải đảm bảo nguồn sáng chiếu vào nó có cường độ và hướng giống với nguồn sáng đang chiếu vào cảnh/vật ta định chụp ảnh. Khi đã ổn định
rồi thì ta đặt cố định khẩu độ sáng. Tất nhiên nhiều máy ảnh (point and shoot camera)
không có chức năng cho phép ta đặt riêng khẩu độ sáng mong muốn, mà chỉ
hạn chế ở mức đặt exposure và
focus cùng lúc, tức là ta sẽ phải dùng một tông xám 18% ở khoảng cách bằng khoảng
cách đến vật thể cần chụp cũng
như ở hướng và cường độ sáng
tương tự nguồn sáng thật.
Tất nhiên, không có Grey Card thì ta vẫn có thể chỉnh khẩu độ sáng
chính xác tương đối dựa vào một khu vực có
tông màu trung tính so với toàn bộ các tông màu trong khung cảnh cần chụp.
Tác giả tiết lộ rằng, màu xanh của cỏ
phản chiếu gần 18% ánh sáng chiếu vào nó, do vậy có thể dùng để chỉnh khẩu độ
sáng. Lưu ý kiếm khu vực cỏ nằm giống hướng
và cường độ nguồn sáng chiếu
vào cảnh vật định chụp.
Ngoài ra tác giả còn linh hoạt dùng màu da của lưng bàn tay để chỉnh khẩu độ sáng tương đối (theo kinh nghiệm ước lượng). Và nếu trong điều kiện trời quang, mây tạnh, ánh sáng tran hoà khắp khung cảnh thì chỉ
việc áp dụng luật nhiếp ảnh "Sunny f16
Rule".
Theo mình biết thì ở thị trường hiện
nay có bán cả loại kính lọc khi lắp vào ống kính của ta sẽ cho phép chỉnh khẩu
độ sáng giống như khi dùng Grey Card, và kiêm
luôn cả chỉnh White Balance giống như khi dùng White Card.
Cá nhân mình thấy trước mắt cứ theo cái hiểu này, thử tìm các khu vực
có tông màu trung tính để chỉnh khẩu độ sáng, chứ chưa cần mua Grey Card vội. Nếu không thành công thì nghĩ đến việc mua bán cũng chưa muộn.
X-5, NGHỆ THUẬT VÀ SỰ DUNG TỤC
Thoky: Em có một câu hỏi nhờ các bác chỉ giáo : Làm thế nào để có được tính nghệ thuật và loại bỏ được
sự trần trụi-đời thường-tục .... ra khỏi một tấm ảnh ?
Câu trả lời đúng như câu hỏi:
Đơn giản là cậu cần nhìn sự vật
đúng như nó tồn tại, bằng điểm nhìn của
chính sự vật và không áp đặt sự trần tục của con người vào cho chúng.
Đây là quan điểm lớn về nghệ
thuật của Pi & Ma.
Cám ơn các bác. Tuy nhiên em chưa tỏ tường ở điểm này : trước
hết là phải loại bỏ sự dung
tục ra khỏi tư tưởng của nguời chụp, nhưng làm thế nào để những người xung quanh (người xem ảnh) cũng hiểu và đồng cảm được
ý định của người chụp ? Hay chính xác là làm thế nào để người chụp có được sự cảm nhận có tính
phổ biến ? khi mà năng lực thẩm
mỹ, kỹ thuật và kinh nghiệm của em đều ở mức zero ?
Suy nghĩ rất nhiều về ý tưởng của bạn, thôi thì góp ý từ từ vậy nhé.
Để thuyết phục được người xem có
cùng tư tưởng suy nghĩ với người chụp
thật không dễ. Mỗi người mỗi khác mà lị (thế mới có sự tranh cãi của ban giám khảo khi chấm điểm các ảnh dự thí chứ??).
Chúng ta làm điều đó bằng nhiều cách thí dụ như: bề ngoài của chủ thể, bố cục, góc cạnh, ánh
sáng..., kỹ thuật dùng máy, kỹ thuật phòng tối...Cuối cùng có được là một tấm ảnh
có cái thần của nó, chuyển tải tư tưởng từ người chụp sang người xem. Nhiều cách quá bây giờ bàn trước về kỹ thuật phòng tối - mà với máy kỹ thuật số
chính là phân mềm sửa ảnh. Các hiệu ứng,
chỉnh sửa màu sắc cũng tạo cho người xem một cảm giác thoát khỏi sự trần tục.
X-6, HỆ SỐ NHÂN TIÊU CỰ
Hệ số nhân tiêu cự (crop factor)
Thực ra dịch là hệ số nhân tiêu cự cũng không hoàn toàn chính xác, rất
dễ gây hiểu lầm. Nếu cứ để đúng theo nghĩa
đen của nó (dịch word by word) là hệ số "cắt cúp" thì vẫn chính xác
hơn. Nhưng quan trọng là cần hiểu rõ bản chất vấn đề.
Lấy theo ví dụ của bạn Nostar:
Khi tăng tiêu cự thực sự từ 100mm lên 150mm (optical zoom) thì sẽ có 2
hệ quả xảy ra:
(i) Góc thu hình (angle view) sẽ hẹp lại,
(ii) Kích thước ẢNH trên film (sensor) sẽ lớn hơn.
Cụ thể là kích thước ảnh sẽ lớn hơn 1.5 lần, và góc thu hình cũng hẹp lại 1.5 lần. (Thực
ra sự phụ thuộc giữa angle view và focal length không hoàn toàn tuyến tính như tỷ lệ giữa kích thước ảnh và focal length. Nhưng trong phạm vi middle range thì có thể coi gần như tuyến tính. Sự phi tuyến thể hiện rõ hơn ở wide). Nhưng tạm thời trong trường hợp này, ta có thể
"đơn giản hoá" nó là tuyến tính cho dễ hiểu vấn đề.
Như vậy là khi thay đổi focal
length, chúng ta nhận được đồng thời hai hệ quả (i) và (ii). Ngược lại, nếu chúng ta thấy xuất hiện (i) và (ii)
thì có nghĩa là focal length đã thay đổi THỰC SỰ.
Quay trở lại với máy DSLR với crop factor 1.5x.
Q:Con số 1.5 ở đâu ra?
A: Một bản film (full frame film) có kích thước 24mm x 36mm, độ dài đường
chéo của bản film sẽ là: 43.266mm
Kích thước sensor máy Nikon Dx là 15.7mm x 23.7mm, độ dài đường chéo của
sensor sẽ là : 28.428mm 1.5 = 43.266 / 28.428
Tại sao lại lấy tỷ lệ đường chéo của film and/or sensor làm crop
factor. Lý do chính là góc tạo bởi giữa hai đỉnh chéo nhau của film (sensor) với
tâm hệ thấu kính chính là angle view!
Như vậy, với một sensor có
kích thước 15.7mm x 23.7mm, hay nói cách khác có crop factor là 1.5, ảnh chụp với
một tiêu cự nào đó (vd 100mm) sẽ có angle view hẹp hơn 1.5 lần so với ảnh chụp cũng với chính tiêu cự đó
(vẫn 100mm) trên full frame ! Tức là ở đây chúng ta đã có hệ quả (i).
Q: Vẫn sensor này, vẫn focal này (100mm), liệu chúng ta có hệ quả thứ
hai (ii) không?
A: KHÔNG ! Vì vị trí đặt film và sensor là hoàn toàn như nhau, tức là kích thước của subject trên film or
sensor là như nhau.
Tóm lại, việc dùng tiêu cự 100mm trên DSLR có crop factor 1.5x sẽ cho
chúng ta hai hệ quả sau:
(i) Góc thu hình (angle view) sẽ hẹp lại tương đương 1.5 lần so với full frame. Tức là tương đương việc dùng 150mm trên full frame;
(ii ') kích thước ảnh ko thay đổi so với full frame. Tức là kích thước ảnh
sẽ nhỏ hơn kích thước ảnh cho bởi 150mm
trên full frame.
Kết luận: 100mm trên DSLR có crop
factor 1.5x không cho chúng ta một bức ảnh THỰC SỰ tương tự như chụp ở tiêu cự 150mm trên full frame. Ta chỉ được
một nửa, ở đây là yếu tố angle view. Đây
chính là điều mà mọi người hay lầm lẫn
khi tự nhủ rằng với máy DSLR 1.x, bị thiệt thòi khi dùng wide lens, nhưng được lợi khi dùng tele lens. Việc thu nhỏ kích
thước sensor đều làm cho góc thu hình bị
hẹp lại mà cũng chẳng làm tăng kích thước ảnh trên MỌI TIÊU CỰ của lens. Điều này thể hiện rõ nhất cái nghĩa của thuật ngữ
CROP FACTOR, thực chất nó chỉ là một sự cắt cúp khuôn hình nhỏ lại mà thôi.
Expansion:
Q:Vậy tại sao một số nơi vẫn dùng thuật ngữ "focal length multiplier" ?
A: Bản chất của vấn đề như mình đã
trình bày ở trên. Và trong một số
trường hợp kích thước ảnh, chất lượng hình ảnh không quan trọng thì hai thuật
ngữ này có thể được hiểu một cách đồng nhất.
Q: Những trường hợp đó là những trường hợp nào?
A: Ngay tại đây thôi, ví dụ như post ảnh lên chia sẻ với mọi người trên HNC.
Giả sử ảnh post lên HNC chỉ chấp nhận kích thước tối đa 600x400
(pixel). Với cùng một subject, NTL chụp bằng Nikon Dx (1.5x) ở focal 100mm,
Nostar chụp bằng 1Ds Mk II (full frame) ở 150mm. Cả hai bức hình khi xem trên
PC sẽ hoàn toàn giống nhau về
khuôn hình (angle view), phối cảnh. (Tất nhiên cả hai bạn đều chụp cùng 1 distance, bỏ qua độ nét, màu sắc,
blah blah nhé... ) Tuy nhiên, kích thước hai bức hình (số lượng pixel) sẽ khác
nhau nhiều đấy. Nhưng giờ đây, để post được hai tấm hình đó lên HNC, cả
hai đều phải resize xuống
600x400, kích thước ảnh lúc này sẽ hoàn toàn như nhau, đạt được hệ quả (ii) rồi. Và lúc này thì 100mm
+ Nikon Dx có thể tự hào hình của mình y hệt như 150mm + D1sMk II.
Tóm lại, nếu ta không tận dụng triệt
để cái kích thước sensor (film) trong việc phóng ảnh, ngược lại còn resize đi nữa
thì có thể rung đùi mà tận hưởng cái "multiple focal length" kia. Còn
nếu muốn phóng ảnh to, hoặc
crop một phần nhỏ bức ảnh mà vẫn đảm bảo chất lượng thì full frame vẫn ưu việt hơn, DSLR 1.x crop factor vẫn bị thiệt thòi ở mọi tiêu cự.
Nhân điều này mình cũng muốn lý
giải thêm cái thắc mắc thứ hai của Nostar trong vấn đề này.
Bạn hỏi tiêu cự 100mm trong máy số 1.5x không giống như máy film ở 150mm là không giống ở chỗ nào?
Mình cũng đã từng thử ngắm 2 trường hợp qua viewfinder và thấy rằng:
- Khuôn hình nhìn trong hai máy đều như nhau. Tất nhiên chỉ mang tính chất
tương đối thôi, vì con số 1.5 x
kia có phần lẻ thập phân đằng sau dài dằng dặc. Hơn nữa, không phải trên lens nào cũng đánh dấu cả
tiêu cự 100 lẫn 150mm.
- Điều khác nhau duy nhất là
hình ngắm trong viewfinder máy DSLR sẽ nhỏ hơn là ngắm trong SLR film. Điều này là hoàn toàn hiển nhiên vì phần quang học
của DSLR's viewfinder phải correct lại cho tỷ lệ với crop factor.
X-7, ẢNH ĐEN TRẮNG TRONG THỜI ĐẠI SỐ
Nếu xét theo các thống kê
kinh tế thì thể loại ảnh đen trắng
cổ điển chụp phim đang mất dần thị trường. Thế nhưng trong số những người đam mê nhiếp ảnh vẫn còn rất nhiều đam mê với thể loại ảnh này. Tuy nhiên vào
thời điểm hôm nay để chụp ảnh đen trắng bằng phim ta cần phải có một Labo
riêng. "Muốn ăn phải lăn vào bếp" mà lại, thêm nữa để nấu ăn ngon liệu ta có thể thoả mãn với chiếc lò vi sóng?
Tạp chí nhiếp ảnh RP #151 giới thiệu
với chúng ta 10 lý do để trung thành với ảnh phim đen trắng của Philippe
Bachelier và Jean- Christophe Béchet, NTL xin được lược dịch lại cùng các bạn.
1. Khoái cảm của tiếp xúc
Từ khi nhiếp ảnh từ bỏ việc lưu ảnh trên kính thì chụp ảnh đen trắng luôn gắn
liền với phim và giấy ảnh,
điều này có nghĩa là những
thao tác của tiếp xúc. Chính yếu tố kỹ thuật này đã tạo thành thói quen, một
cách nhìn nhận và chụp ảnh. Khi ta lắp phim vào máy ảnh là lúc ta tiếp xúc trực tiếp với vật thể sẽ trở thành phim âm bản sau
này. Tất cả những gì đã chụp, thành công hay thất bại, đều được ghi lại trên phim theo một trật tự nhất
định. Dĩ nhiên tất cả những thứ này đều không thể nhìn thấy, vẫn là tiềm ẩn một khi cuộn phim chưa được tráng rửa. Thế nhưng hình ảnh đã thật sự tồn tại một cách hoàn toàn vật
lý trong những lớp nhũ tương. Tiếp theo công đoạn tráng phim, ta đã có thể nhìn ngắm những hình ảnh
trong suốt trên một bàn soi phim chuyên dụng. Như thế những cảm xúc đầu tiên trào tới: ta nhận ra
hay thấp thỏm hy vọng một hình ảnh thành công để đem đi in ảnh. Nhưng ta cũng có
thể hoàn toàn để những âm bản
này vào lưu trữ, thậm chí không in cả ảnh
mục lục, cho tới ngày ta có hứng thú muốn nhìn thấy chúng hiện trên giấy.
Với phim cổ điển, một cuộn phim được tráng rửa với những "nghi lễ"
trong ánh đèn đỏ của Labo, người thao tác thật sự một mình...Thao tác rọi ảnh
áp đặt ta phải tách rời với thế giới
bên ngoài: bàn tay tạo nên ánh sáng trên tấm giấy ảnh rất nhạy sáng rồi tiếp theo là những xử lý mang tính hóa học...Ta cảm
nhận được sự khoái cảm của việc đụng chạm vào những trang thiết bị được dùng để tạo nên hình ảnh. Cũng như vậy, các thao tác hiệu chỉnh tông xám, chi tiết...trên từng phần của hình ảnh, ta có cảm
giác như trong một khoảnh khắc của không
gian đã trở thành một nhà luyện kim của thời xa xưa...
2. Thiết bị nhiếp ảnh không bao giờ lỗi mốt
Trong ảnh phim đen trắng, những mẹo chụp ảnh luôn có hiệu quả. Ta có thể
hoàn toàn chụp ảnh "theo phong cách của ai đó" với một thân máy SLR
"cổ điển" hay với một chiếc Leica, một ống kính 50mm và một cuộn phim Tri-X nếu như ta có được cảm hứng từ HCB, chụp ảnh phong cảnh với ống
kính góc rộng kiểu Sieff, những tấm ảnh chân dung với Rolleiflex như Irving Penn
hoặc những tấm ảnh panorama
kiểu Koudelka. Tất cả truyền thống
của ảnh đen trắng ở đằng sau chúng ta, hãy tận hưởng những kinh nghiệm quý báu
đó để tự thỏa mãn hay lấy cảm hứng chụp ảnh.
Ta không hề phải đối mặt với những rủi
ro của việc tương thích khi sử dụng ống kính, thân máy
lỗi mốt bởi một dSLR khác có nhiều pixels hơn...Cũng sẽ không còn là cần thiết việc thường xuyên theo dõi thông tin
"update" trên internet. Như vậy, nhiếp ảnh gia đen trắng có thể nghiên cứu sâu hơn về kỹ thuật và trụ vững với nó. Những căn bản được
nắm chắc rồi thì ta chỉ cần tập trung vào riêng sáng tạo...
3. Từ khổ 24x36 tới 4x5...
Nhiếp ảnh đen trắng rất đa dạng
trong chủng loại phim, về độ nhạy cũng như định dạng. Nếu như ta nói rằng một chiếc dSLR 6 Mpix cho ảnh có chất lượng nói chung
tương đương với một chiếc SLR lắp phim 24x36 ISO 100 thì chiếc máy ảnh "Moyen- Format", với giá khá đại chúng, lại cho kết quả đẹp hơn nhiều. Giá của một cuộn phim 120 vào khoảng 2,5 -
3,5€ và các thao tác tráng, in ảnh cũng không có gì đặc biệt hơn loại phim 135. Và như thế thì tại sao ta lại không nghiêng về chất lượng hình ảnh khó có thể so sánh nổi với
dòng máy "Moyen-Format". Hiện tại, mua một chiếc máy 20x25cm mác Edward Weston
"second-hand" chỉ khoảng 1 500€, và để trang bị một labo in ảnh
"planches-contact" cũng rất đơn giản.
Với mỗi một "format" ta có một chất lượng ảnh rất đặc trưng. Ta vẫn hay thường nói là có thể chấp nhận độ phân
giải thấp vì sẽ đứng ngắm tấm ảnh từ xa, tối thiểu là tại một khoảng cách tương đương với đường chéo của ảnh. Nhưng một trong những khoái cảm của ảnh phim là có thể
ngắm nhìn các tấm ảnh khổ lớn thật gần để thích thú với những chi tiết hay các "motif" của hạt ảnh mà nếu đứng xa ta chỉ có thể nhìn rất chung chung
mà thôi. Đó chính là lý do khiến ta
dùng máy ảnh "Moyen-Format", "Grand-Format" hay loại phim
như "Technical Pan".
4. Tất cả mọi độ nhạy
Từ độ nhạy siêu chính xác của Technical tới hạt ảnh của Delta 3200 hay
Tmax 3200, chúng ta có một sự lựa chọn rất rộng. Ta có thể nhẩm tính được tối
thiểu là 20 loại phim "tiêu chuẩn". Và mỗi loại phim có một chất riêng
không thể nào bắt chước với một gam mầu xám của chính nó. So với kỹ thuật số
thì phim cổ điển hoàn toàn chiếm ưu thế với độ nhạy lớn hơn ISO 400. Tại ISO 800, ISO 1600 hay ISO 3200, lúc chụp ảnh
trong nhà, khi một cú đèn flash làm hỏng hết ánh sáng không gian, thì phim đen trắng vẫn là không thể nào sánh được.
5. Đầu tư cho Labo rẻ
Khi ta đọc lại những gì được viết trong quyển "La Photo" của Sieff hoặc trong "La Photopgraphie" của Boubat, những tác phầm được tái bản nhiều lần từ 30 năm nay, ta có thể nhận thấy rằng
những lời khuyên và kinh nghiệm quý báu không hề mất đi giá trị của chúng. Một chiếc máy phóng "Durst" của những năm
60, 70 luôn cho phép phóng những tấm ảnh đẹp. Thị trường thiết bị nhiếp ảnh cũ ngày càng phong phú cho phép ta mua được những thứ tốt và rẻ.
Và nếu như bạn quyết định đầu tư vào thiết bị mới toanh thì chắc
chắn trong vòng 10 năm sẽ chẳng phải lo lắng gì về kỹ thuật cả.
Điều quan tâm duy nhất là
tìm được một diện tích đủ rộng để lắp đặt Labo. Với chi phí khoảng giá tiền một chiếc dSLR loại nghiệp dư, mà giá trị của nó sẽ mất đi -50% trong vòng 6 tháng, bạn hoàn toàn có thể
trang bị một Labo "Pro" cho thể loại 24x36 hay 6x7...
6. Phóng ảnh ở mọi kích thước
Đây là một tiêu chuẩn mà nhiều người quên khi lựa chọn kỹ thuật số: ta bị hạn chế với khổ giấy của máy in, A4, trong 90% các
nhu cầu sử dụng thông dụng.
Trái lại trong Labo ta có thể phóng ảnh 30x40 cm cũng như 24x30 hay
40x50, 50x60 mà chỉ cần sắp xếp lại một chút. Gam giấy phóng ảnh vẫn còn rất
phong phú từ số lượng cho tới các tông giấy khác nhau. Nếu như bạn muốn làm một triển lãm ảnh thì hoàn toàn có
thể in ảnh tại gia. Với kỹ thuật số, ta bắt buộc phải mang ảnh tới các Labo Pro
với giá cắt cổ hay tạm hài lòng với chất lượng phóng ảnh "đại chúng"
của các Lab bình dân.
Và ta cũng không nên quên rằng với phim, ta sẽ có được tấm ảnh chung cuộc
chất lượng cao và giá rẻ hơn là tự phóng lấy với máy in.
Cuối cùng thì ảnh phóng từ phim không bị hiện tượng
"métamérisme" - thay đổi tông mầu tuỳ theo nguồn sáng như với ảnh in bằng inkjet.
7. Chất hạt trên ảnh
Ảnh từ phim mang một dấu ấn đặc trưng: hạt ảnh. Nó chính là ADN của phim, hiện thân của
cấu trúc phim - rất không đều.
Cho dù hạt phim có hiện rõ hay không trên ảnh thì chúng vẫn là một phần của thế giới phim.
Một số người tìm cách tránh, một số khác lại đi tìm hạt phim thể hiện
trên ảnh. Khi ta muốn hạn chế hạt
phim thì có thể dùng các phim có độ nhạy thấp, như Technical
Pan ISO 100, Acros, Delta hay Tmax. Chuyển sang dùng MF hay "chambre" cũng cho phép tạo nên những hình
ảnh mà hạt phim là không nhìn thấy hay rất mịn. Ngược lại, khi ta muốn thể hiện
sự nổi hạt trên ảnh thì chỉ cần dùng các phim có độ nhạy ISO tối thiểu từ 400
hay thậm chí dùng ISO 1000 (Fuji Neopan, Ilford Delta và Kodak Tmax).
Mỗi một loại phim có một cấu trúc hạt điển hình của nó, như thế ta chỉ cần lựa chọn loại phim thích hợp với
chủ đề mà mình định thể hiện mà
thôi. Thiết bị tráng phim cũng là một
yếu tố ảnh hưởng tới độ hạt
của phim. Cặp Tri-X/Rodinal rất nổi tiếng về chất lượng ảnh hạt.
Trong kỹ thuật số, mọi lao tâm khổ tứ của nhiếp ảnh giá đều bị khống chế bởi khả năng thể hiện của
thiết bị in như kích thước của giọt mực chẳng hạn.
X-8, BỐ CỤC - HỘI HỌA VÀ NHIẾP ẢNH
Để trả lời cho câu hỏi về sự khác nhau giữa bố cục một bức tranh v・khu h・h của một tấm ảnh sẽ tốn rất nhiều giấy mực, hay nói một cách hiện đại hơn là sẽ mất rất nhiều giờ internet và hao mòn bàn phím.
Chặng đường để đi tới kết luận
cuối cùng còn dài hay thậm chí ta không thể có một kết luận rõ ràng. Câu hỏi đặt ra rất lý thú và
chúng ta hãy cùng nhau giải đáp.
Có người nói "Đỉnh cao của Nhiếp Ảnh là Hội hoạ", câu nói này đúng trong giới hạn thể hiện của
nghệ thuật muốn mang lại cảm xúc cho người xem. Nhưng đứng về mặt kỹ thuật đơn thuần thì giữa Hội hoạ và
Nhiếp ảnh có tồn tại nhiều sự khác biệt.
Sự chuẩn bị mang tính hiển nhiên của một hoạ sĩ trước khi thể hiện ý tưởng
của mình là lựa chọn vật liệu với một bề mặt thích hợp (Toan, lụa, giấy...) cũng như một khung tranh với kích thước hoàn toàn đặc biệt.
Chính trong khung tranh này người hoạ sĩ sẽ thể hiện cảm xúc của mình. Người hoạ
sĩ chịu trách nhiệm về khuôn khổ của khung vẽ,
giống như nhà nhiếp ảnh lựa chọn cuộn phim
để thể hiện những gì mình nhìn thấy, cảm nhận được bằng tâm hồn mình. Với một
nhiếp ảnh gia thì khuôn hình
hoàn toàn là biểu hiện mang tính vật lý thông qua khuôn ngắm của máy ảnh - một
khái niệm mang tính mặc định trước. Còn với hoạ sĩ thì khung tranh chỉ đơn thuần là ý niệm, là sự sáng tạo của hình ảnh.
Vậy sự khác biệt nằm ở đâu trong bố cục?
1. Ta không thể chọn lựa một khuôn khổ tranh mang tính tiêu chuẩn cho hội
hoạ
2. Để cho hội hoạ và nhiếp ảnh gần lại nhau thì có lẽ nên lựa chọn một khung vẽ có tỉ lệ gần với
tỉ lệ của kích thuớc khuôn ngắm của máy ảnh?
3.Một bức tranh có thể không thể hiện một điều gì đó thật cụ thể nhưng một bức ảnh thì không thể là siêu tưởng.
4.Trong một khung vẽ có thể chứa đựng nhiều khung vẽ khác nhau, chồng chéo trên mặt phẳng,
một bức ảnh thường giống như một khung cửa sổ hay cửa đi mà ta vẫn quen gọi là khuôn hình.
5. Cuối cùng thì trong nhiếp ảnh bạn có thể lựa chọn bất cứ điều gì mình muốn thể hiện nhưng không thể làm thay đổi vật thể tồn tại, trong Hội hoạ
bạn có thể sắp đặt và tổ chức bố cục các yếu tố hình thức theo trí tưởng tượng phong phú của mình.
Vậy đó, ngay từ trong khái niệm căn bản thì bố cục của Hội hoạ và Nhiếp ảnh đã rất khác nhau rồi. Nhưng chúng lại vẫn mang những đặc tính chung của nghệ thuật.
Điều bí mật nằm ở đâu?
-------------------------------------------
XI, THÔNG TIN VỀ SÁCH
Tên sách: Nhiếp ảnh số căn bản
Nguồn: HaNoiCorner.com, Photovn.com, TTVNOL.com
Tác giả: Nguoithanglong (HNC), Lekima (Photovn) và các bạn khác
-----------------------------------------
Tham khảo thêm :
Nguyễn Hoàng Ấn: NHIẾP ẢNH SỐ TOÀN TẬP - PHẦN 2Nguyễn Hoàng Ấn: NHIẾP ẢNH SỐ TOÀN TẬP - PHẦN 3
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét