Kiến
trúc cổ Việt
Nam
Kts.Nguyễn Hoàng Ấn - Sưu tầm và biên soạn (Lưu hành nội bộ)
·
1 Kiến trúc quân sự - quốc phòng
o
1.1 Thành Cổ Loa
o
1.3 Thành Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội
o
1.4 Thành Tây Đô
o
1.5 Thành Huế
·
2 Kiến trúc cung điện - dinh thự
o
2.1 Kiến trúc cung đình Huế
·
3 Kiến trúc tôn giáo - tín ngưỡng
o
3.1 Chùa tháp
o
3.2 Đền miếu
o
3.3 Văn Miếu - Văn chỉ
o
3.4 Lăng mộ
o
3.5 Đình làng
o
3.6 Tháp Chàm
·
4 Kiến trúc dân gian
o
4.1 Nhà ở dân gian
o
4.2 Kiến trúc công cộng dân gian
·
5 Kiến trúc vườn cảnh
o
5.1 Các vườn đẹp ở Việt Nam
o
5.2 Trong nhà ở
o
5.3 Trong công trình tôn giáo tín ngưỡng
o
5.4 Trong triều đình
o
5.5 Vườn Lăng tẩm
-----------------------------------------------------------------------------------
Quá trình phát triển nền kiến trúc cổ Việt Nam gắn liền với môi trường
thiên nhiên và hoàn cảnh kinh tế - xã hội. Những công trình kiến trúc cổ hầu
hết được xây dựng trong thời kỳ phong kiến - chủ yếu là trướcthế kỷ 19. Dù là
công trình nhỏ bé như kiến trúc dân gian hoặc đồ sộ, phức tạp như kiến trúc
cung đình, vật liệu xây dựng sẵn có ở địa phương đã được khai thác và sử dụng
phổ biến và rộng khắp: tranh, tre,nứa, lá, gỗ, đá...,
sau này còn có các vật liệu khác như gạch, ngói, sành, sứ... Hệ thống kết cấu khung cột, vì kèo và
các loại xà đều có quy định thống nhất về kích thước, tương quan về tỷ lệ và
qua đó, những nghệ nhân trước đây đã sáng tạo ra một thức kiến trúc riêng biệt
trong kiến trúc cổ và dân gian Việt Nam.
Trải qua nhiều triều đại, nhiều thế kỷ với
bao thăng trầm lịch sử, đến ngày nay các công trình đã trải qua nhiều lần trùng
tu sửa chữa để tồn tại, một số còn giữ được cốt cách nguyên sơ song cũng có
nhiều công trình bị pha tạp do nguyên nhân chủ quan hoặc khách quan. Tuy nhiên,
những công trình này vẫn là dấu tích cụ thể ghi lại chặng đường sáng tạo và lao
động nghệ thuật, mang dấu ấn lịch sử dân tộc rất rõ nét.
Kiến trúc cổ Việt Nam được chia thành các
loại hình như sau:
Kiến trúc quân sự - quốc phòng
Đây là loại hình kiến
trúc bao gồm thành lũy, pháp đài, đồn, cửa ô... Những kiến trúc quân sự quốc phòng cổ Việt Nam có
mặt bằng bố cục gồm các hình như: hình vuông, hình chữ nhật, hình đa giác đều,
hình tròn, hình ngôi sao và những hình đặc biệt khác. Vật liệu xây dựng các loại hình
kiến trúc này rất phong phú. Ở miền núi, người ta sử dụng phiến đá xanh có đẽo gọt hoặc không; ở
miền trung du, người ta sử dụng đá ong; ở miền đồng
bằng sử dụng đất hoặc gạch và vôi vữa xây thành.
Bố
cục thành Cổ Loa (Đông Anh - Hà Nội) có 3 vòng rõ
rệt: vòng ngoài, vòng trong và vòng giữa đều được đắp bằng đất. Người ta thông
thường đào đất ngay tại chỗ đắp tường thành, phần đất bị đào đi tạo nên hào
chạy xung quanh thành và hào cũng là bộ phận có tác dụng phòng ngự của thành. Thành Cổ Loa có hình dáng khá đặc biệt
giống hình xoáy vỏ ốc. Toàn bộ xung quanh các vòng thành Cổ Loa đều có đào hào,
trừ phía Tây Nam và Đông Nam là sông hoặc đầm lầy tự nhiên, còn toàn bộ là hào
nhân tạo rộng từ 20–50 m.
Thành Hoa Lư (Ninh Bình) là kinh
đô thuộc thời nhà Đinh - Tiền
Lê. Đây là công trình đạt tới đỉnh cao về mức độ kiên cố, hiểm trở
của loại hình công trình phòng ngự trong lịch sử đương thời. Thành Hoa Lư nằm trên một khoảnh đất
khá bằng phẳng trong khu vực những dải (dãy) núi đá vôi hiểm trở, bao bọc xung
quanh, tạo thành những bức tường thành thiên nhiên kiên cố. Mười đoạn tường
thành nhân tạo nối liền những dải núi đá vôi tạo nên 2 vòng thành khép kín sát
cạnh nhau, được gọi là thành ngoài và thành trong, với diện tích toàn bộ khoảng
trên 300 ha.
Thành Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội
Thành Thăng Long thời nhà Lý gồm nhiều vòng thành.
Vòng ngoài cùng là La thành, vừa là nơi phòng ngự, vừa là nơi ngăn lụt, có độ
dài khoảng 30 km. Trong khu vực này là Kinh thành bao gồm nhiều phường
phố, chợ búa... nơi ăn ở buôn bán sản xuất thủ công nghiệp của nhân dân và quan lại.
Hoàng thành được xây bằng gạch, là nơi đóng các cơ quan đầu não của nhà nước và
triều đình phong kiến, bên
trong có Cấm thành là nơi dành cho vua và gia đình ở, sinh hoạt.
Thành Tây Đô
Cổng Tiền Thành Tây Đô,
Thanh Hóa
Bình đồ của tòa thành gần như vuông, diện
tích rộng 77 ha, đông tây khoảng 880 m, bắc nam hơn 870 m. Thành tường đắp bằng đất, bọc đá xanh bên
ngoài. Kiên cố nhất là bốn cổng lớn trổ ra bốn hướng đông, tây, nam, bắc. Cổng
nam, tức cổng chính có ba lối đi xây cuốn tò vò, cao gần 10 m.[1]
Đây là công trình kiến trúc bằng đá quy mô
rất lớn xây từ thời nhà Trần, và được
coi là tòa thành cổ lớn nhất Đông nam Á nên đã được đề cử là Di sản Văn hóa Thế giớingày 29 tháng 9, 2009 với Tổ chức Giáo dục, Khoa học và
Văn hóa Liên hiệp quốc (UNESCO).[1]
Thành Huế
Bài chi tiết: Thành Huế
Bài chi tiết: Thành Huế
Cổng Ngọ Môn của thành Huế
Vòng thành ngoài là Kinh thành, xây kiểu Vauban, dạng gần hình vuông, mỗi cạnh 2235 m,
chu vi gần 9000 m. Tường thành xây ốp bằng gạch hộp dày khoảng trên 2 m và cao
khoảng 6,50 m. Vòng thành giữa gọi là Hoàng cung hay Đại nội hình chữ nhật.
Vòng thành trong cùng là Tử Cấm thành. Tường xây cao 3,1 m, dày 0,72 m và có 7
cửa.
Kiến trúc cung điện - dinh thự
Kiến trúc cung điện - dinh thự là kiến trúc
tiêu biểu và điển hình của các triều đại phong kiến Việt Nam. Loại hình kiến
trúc này huy động tập trung được cao độ vật tư và tài lực của cả nước hoặc một
địa phương, thể hiện sự giàu có và quyền lực trong từng giai đoạn của từng
hoàng đế trị vì. Có thể nói đây là loại hình kiến trúc phong kiến quy mô nhất
trong các loại hình kiến trúc thời phong kiến, mà di sản còn được gìn giữ lại
cho đến ngày nay.[2]
Kiến trúc cung đình Huế
Năm 1802 - sau khi cách mạng Tây Sơn bị
hoàn toàn thất bại - Nguyễn Ánh (Gia Long) lập triều Nguyễn và đóng đô ở Huế
(Phú Xuân), tập trung nhân lực và vật tư cả nước xây dựng Hoàng cung trong kinh
đô Huế. Kiến trúc cung điện dinh thự nhà Nguyễn vẫn được bố cục xây dựng theo
kiểu truyền thống triều đình phong kiến Á Đông, gồm có những loại sau đây:
·
Dùng là nơi thiết triều và cử hành lễ nghi,
có: Ngọ Môn, điện Thái Hòa, điện Cần Chánh, Tả Vu, Hữu Vu v.v..
·
Nơi ở của vua và gia đình: điện Càn Thành,
điện Khôn Thái, điện Kiến Trung, cung Diên Thọ, cung Trường Xanh v.v..
·
Công sở - công quán: điện Văn Minh, điện Võ
Hiển, Đông các phủ nội vụ, Thị vệ trực phòng, Thái y viện, Thượng thiên đường
v.v..
Trải qua gần 100 năm với bao biến động lịch
sử, khí hậu khắc nghiệt và thời gian tàn phá, một số lớn - trên 80% - cung điện
dinh thự Hoàng cung nhà Nguyễn đã bị hủy hoại. Đây là một con số không nhỏ, ảnh
hưởng sâu sắc đến quy mô di sản kiến trúc cổ của Việt Nam ngày nay. Mặt khác,
trong điều kiện xã hội nửa phong kiến, nửa thuộc địa sau này, kiến trúc cung
đình Huế đã bị ảnh hưởng và có sự lai tạp Á, Âu trong nhiều bộ phận và đang là
vấn đề bàn cãi của các nhà nghiên cứu nghệ thuật kiến trúc và mỹ thuật.[2]
Kiến trúc tôn giáo - tín ngưỡng
Chùa tháp
Chùa tháp là cơ sở hoạt động và truyền bá Phật giáo. Bố cục
mặt bằng ngôi chùa có các loại hình như sau:
·
Chữ Đinh (丁), bên ngoài rộng 5 gian, 7 gian...
·
Chữ Công (工), hay còn gọi là nội công, ngoại quốc (trong là chữ 工, ngoài là chữ 囗)
·
Chữ Nhị (二), chữ Tam (三)... bao gồm một tổng thể nhiều công trình đơn lẻ, có
hành lang bao quanh hoặc tường vây kín.
Đền miếu
Đền Trung Liệt trên gò
Đống Đa, Hà Nội
Công trình đền đài, miếu mạo là nơi thờ
cúng của Đạo giáo (Lão giáo). Địa điểm xây
dựng thường được lựa chọn ở những vị trí có liên quan đến những truyền thuyết
hoặc sự tích, cuộc sống của vị thần siêu nhiên hoặc các nhân vật được tôn thờ.
Đại thể kiến trúc bên ngoài của đền đài miếu mạo có những đặc điểm cơ bản giống
của kiến trúc đình chùa, nhưng nội dung thờ cúng và trang trí nội thất có khác
nhau.
Văn Miếu - Văn chỉ
Bài chi tiết: Văn Miếu-Quốc Tử Giám
Quần thể Văn miếu - Quốc tử Giám Hà Nội
được xây dựng theo trục Bắc Nam. Phía trước Văn Miếu có một hồ lớn gọi là hồ
Văn Chương. Ngoài cổng chính có một dãy 4 cột trụ, hai bên tả hữu có bia.Cổng
Văn miếu xây kiểu Tam Quan trên có 3 chữ lớn Văn miếu môn viết bằng chữ Hán.
Lăng mộ
Kiến trúc lăng mộ là các công trình lăng
tẩm và mộ táng cổ xưa. Một số dân tộc còn có nhà mồ. Có hai loại mộ táng:
·
Mộ của những người thế tục
·
Mộ của những người tu hành.
Vật liệu xây dựng mộ thường là những viên
gạch có độ nung già. Gạch hộp kích thước 40x30cm và gạch múi bưởi (gạch lưỡi
búa) để xây cuốn, có trang trí nổi hình quả trám đời nhà Hán, hình chữ S
hoặc con giống, hoa lá.
Đình làng
Bài chi tiết: Đình
Đình Bảng Môn, Hoằng Lộc, huyện Hoằng Hóa, Thanh Hóa. Đình làm theo kiểu hai mái bít đốc.
Đình làng nguyên là nơi thờ thành hoàng theo phong tục tín ngưỡng
trong xã hội Việt Nam cổ đại. Vì vậy nó thường được xếp vào thể loại công trình
phục vụ cho tôn giáo, tín
ngưỡng. Tuy nhiên, đình làng còn là một công trình thuộc thể loại kiến trúc
công cộng dân dụng do tính chất phục vụ đa chức năng của nó. Ngoài là nơi thờ
Thành hoàng làng, đình làng còn là trung tâm hành chính, quản trị phục vụ cho
mọi hoạt động thuộc về cộng đồng làng xã; là nơi làm việc của Hội đồng kỳ mục trước đây (trong thời
phong kiến); là nơi hội họp của dân làng... Đây cũng là nơi diễn ra các lễ hội
làng truyền thống, nơi sinh hoạt văn hóa, văn nghệ của làng. Nói chung, với ba
chức năng cơ bản trên (tín ngưỡng, hành chính, văn hóa-văn nghệ), đình làng là
nơi diễn ra nhiều hoạt động của làng xã Việt Nam dưới thời phong kiến.
Phía trước đình làng thường có sân rộng, hồ
nước cây xanh tạo cảnh quan. Kiến trúc đình làng có thể chỉ 5-7 gian, hoặc có
thể có tới 7 gian hai chái như ở đình làng Đình
Bảng. Đây cũng là số gian lớn nhất mà kiến trúc cổ Việt Nam có được.
Đình làng thường phổ biến loại bốn mái, có khi cũng phát triển thêm loại tám
mái (kiểu chồng diêm) do những ảnh hưởng của kiến trúc Trung Hoa về sau này.
Mặt bằng đình có thể là kiểu chữ Nhất (一)(kiểu này thường thấy ở các đình cổ, thế kỷ XVI); hoặc
quy mô, phức tạp hơn với những bố cục mặt bằng có tên gọi theo dạng chữ Nho: chữ Đinh (丁), chữ Nhị (二), chữ Công (工), chữ Môn (門)... Đây là các dạng mặt bằng xuất hiện về sau, bổ sung
cho sự phong phú của đình làng Việt Nam, đi liền với quá trình phát triển thêm
về mặt chức năng của đình làng. Không gian cảnh quan, kiến trúc đình làng
thường phát triển cả phía sau, phía trước và hai bên, với nhiều hạng mục: hậu
cung, ống muỗng (ống muống), tường cánh gà, tiền tế, các dãy tả vu, hữu vu, tam
quan, trụ biểu, hồ nước, thủy đình... Trong bố cục đó, không gian chủ yếu vẫn
là tòa đại đình (đại bái), là nơi diễn ra các hoạt động hội họp, ăn khao, khao
vọng, phạt vạ... của dân làng. Đại đình bao giờ cũng là tòa nhà lớn nhất trong
quần thể, bề thế, trang trọng. Đại đình ở các đình cổ thường có sàn lát ván,
cao từ 60 đến 80 cm, chia làm ba cốt cao độ, là sự phân chia thứ bậc cho
những người ngồi ở Đại đình. Ở những tòa Đại đình của các ngôi đình chưa có hậu
cung, bàn thờ Thành hoàng được đặt ở chính gian giữa đại đình; gian này không
lát ván sàn và có tên là "Lòng thuyền".
Hậu cung là nơi đặt bàn thờ Thành hoàng.
Trong hậu cung có cung cấm, là nơi đặt bài vị, sắc phong của vị thần làng. Xung
quanh hậu cung thường được bít kín bằng ván gỗ, không trổ cửa sổ, tạo không
khí uy nghiêm và linh thiêng.
Đình làng không những có giá trị về mặt
kiến trúc cao, là kiến túc thuần Việt nhất của dân tộc, mà còn là kho tàng hết
sức giá trị về mặt điêu khắc dân gian. Đây là thế giới cho nền nghệ thuật điêu
khắc dân gian phát triển mạnh mẽ. Trên các vì kèo, tất cả các đầu bẩy, đầu dư, đố, xà kẻ, ván
gió, ván nong (dong)... là nơi các nghệ sĩ điêu khắc dân gian chạm khắc các đề
tài tái hiện cuộc sống và lao động của con người, cảnh sắc thiên nhiên giàu
tính dân gian và phong phú, sinh động. Chính vì vậy, các điêu khắc đình làng
còn có giá trị to lớn trong việc nghiên cứu về cuộc sống vật chất, tinh thần
của người Việt Nam trước đây. Nó có giá trị lịch sử sâu sắc.
Tháp Chàm
Tháp Chàm là những đền miếu cổ, thuộc kiến
trúc tôn giáo tín ngưỡng của dân tộc Chàm (còn gọi là dân tộc Chăm,
sinh sống ở miền Nam Trung Bộ Việt Nam ngày nay. Tháp Chàm là một khối kiến
trúc xây dựng bằng gạch nung màu đỏ sẫm lấy từ đất địa
phương, phía trên mở rộng và thon vút hình bông hoa. Mặt bằng tháp đa số là
hình vuông có không gian bên trong chật hẹp thường có cửa duy nhất mở về hướng
Đông (hướng mặt trời mọc). Trần được cấu tạo vòm cuốn, trong lòng tháp đặt một
bệ thờ thần bằng đá. Nghệ thuật chạm khắc, đẽo gọt công phu hình hoa lá, chim
muông, vũ nữ, thần thánh thể hiện trên mặt tường ngoài của tháp. Trên các bức
tường không thấy mạch vữa liên kết, song các viên gạch lại liên kết với nhau
rất rắn chắc, bền vững tới hàng chục thế kỷ.
Kiến trúc dân gian
Nhà theo kiến trúc cổ
truyền ở đồng bằng sông Hồng
Nhà ở dân gian
Nhà ở dân gian đã trải qua một quá trình
chuyển biến từ nhà sàn đến nhà nền đất. Nhà nền đất vùng xuôi có kết cấu khung
tre hay gỗ, thường làm vách và lợp bằng tranh, rạ hay lá dừa nước;
nếu là kết cấu khung gỗ loại tốt lại thường được lợp bằng ngói, tường bao
quanh bằng gạch với vì kèo gỗ. Khuôn viên
nhà bao gồm: nhà chính, nhà phụ (nhà ngang, nhà bếp) và chuồng gia
súc cùng sân, vườn, ao, giếng hoặc bể nước và hàng rào,
tường vây quanh, cổng ngõ. Nhà chính thường có số gian lẻ (1, 3 hay 5) cùng với
1 hoặc 2 chái. Nhà chính thường quay về hướng nam, hướng này có thể đón ánh
nắng khi trời lạnh, đón được gió mát để giải nồng. Phía trước thường trồng cây
có tán cao đề làm cảnh, đón gió tốt. Phía sau, trồng cây bụi để ngăn gió lạnh.
·
Nhà sàn: nhà sàn bằng gỗ là kiểu nhà truyền
thống từ xưa đến nay ở các vùng đồng bào dân tộc hay sinh sống ở các vùng núi
cao (trong nam có nhà Rôông của người tây nguyên, ngoài bắc có nhà sàn của
người mường, dao, thái...vv)
Kiến trúc công cộng dân gian
Cổng làng Thổ Hà, Bắc
Giang
·
Quán điếm: Quán có thể là quán nghỉ của
nông dân ở goài ruộng hoặc quán chợ trong các chợ buôn bán. Điếm có thể là điếm
tuần canh trong làng xóm, điếm canh đề phòng lũ lụt vỡ đê hay điếm ở ngoài
nghĩa trang... Quán điếm thường có cấu tạo đơn giản, được xây dựng bằng tranh, tre, nứa, lá hoặc gạch, đá, gỗ ngói...
·
Chợ làng: Chợ làng là nơi mua bán, trao đổi
nông sản, hàng hóa... giữa những người trong làng. Chợ làng thông thường có một
quán chính (5 gian) và nhiều quán nhỏ khác.
·
Cổng làng: Làng xóm
Việt Nam được bao bọc bới lũy tre và cổng làng chính là cửa ngõ của làng xóm.
Vật liệu xây dựng của cổng làng thường là gạch, gỗ, ngói, đá ong,...Những cổng
làng có quy mô thường có cửa đóng then cài và bảo vệ nghiêm ngặt, kết hợp với
lũy tre làm thành pháo đài kiên cố chống lại giặc giã, cướp bóc hay ngoại xâm.
Kiến trúc vườn cảnh
Vườn cảnh là nghệ thuật tạo hình mô phỏng
thiên nhiên trong một không gian giới hạn, làm nền tạo cảnh tôn cao giá trị
công trình chính hoặc quần thể công trình. Vườn cảnh của Việt Nam chịu ảnh
hưởng của vườn cảnh Á Đông, có nhiều nét tương tự vườn cảnh Trung Quốc và Nhật Bản, thường gồm
3 thành phần: mặt nước, cây xanh và đá núi nhỏ.
Vườn cảnh Việt Nam không nổi tiếng như vườn
Nhật, vườn Trung Hoa do không có những nét đặc trưng rõ ràng và khuôn mẫu cụ
thể cũng như độ phổ biến rộng rãi ra ngoài khu vực. Các vườn cảnh ở Việt Nam,
nhất là những khu vườn lớn, cổ thường mang những nét tương đồng với vườn Trung
Hoa như hòn non bộ, thủy đình, các lầu hóng gió, ngắm trăng, các hồ nước
được trồng viền liễu rủ...
Vườn Việt Nam thường là sự thể hiện lại nét
tự nhiên của thiên nhiên mộc mạc, ở Việt Nam vườn cảnh thường được Việt hóa để
tạo nên nét riêng và phù hợp với điều kiện thời tiết, đất đai và văn hóa, lịch
sử (Việt Nam là nước vùng nhiệt
đới)... từ đó khiến vườn Việt Nam có những đặc điểm riêng; ví dụ ở
vườn Việt Nam, những yếu tố như nét dân dã và mộc mạc và bản sắc dân tộc luôn
được đề cao, coi trọng và thể hiện[cần dẫn nguồn]. Đó là những nét
rất gần gũi với cuộc sống thường nhật ở thôn quê Việt Nam như: cây đa bến nước,
cây khế bờ ao, lũy tre, hàng rào chè tàu hay dâm bụt, cây cau vương vít bụi
trầu, giếng khơi, lu nước với chiếc gáo dừa được tra chiếc cán tre xinh xắn...
Đặc biệt, trong vườn cảnh Việt Nam ở mỗi miền lại thường có những ngôi nhà mang
đậm nét đặc trưng như: nhà ba gian, hai chái ở những vườn cảnh ở Bắc bộ; nhà
rường trong những nhà vườn Huế; hoặc được làm đẹp bằng những kiểu nhà sàn của
dân tộc thiểu số vùng cao. Ở Nam bộ trong vườn thường có thêm những cây cầu khỉ bằng tre vắt vẻo qua các
mương nước như thách thức du khách đến chơi vườn...
Chính vì những nét riêng này mà ở Việt Nam
có nhà vườn Huế rất đặc biệt, được nhiều người biết đến, công nhận về tính đặc
hữu[cần dẫn nguồn].
Các vườn đẹp ở Việt Nam]
Ở Việt Nam có các khu vườn cảnh cổ đẹp,
đáng chú ý như các khu nhà vườn Huế, các vườn cảnh cổ ở các lăng mộ vua chúa,
Tử cấm thành các triều đại vua chúa phong kiến, vườn trong các đình, chùa cổ...
Trong nhà ở
Trong ngôi nhà cổ truyền của Việt Nam
thường có một bộ phận không thể thiếu được là mảnh vườn. Đây là nơi tăng gia và
cũng có thể là nơi cải thiện môi trường sống, tạo không gian thoáng đãng cho
ngôi nhà. Đặc biệt, nhà - vườn ở Huế đã trở thành một nét đặc
sắc của miền Trung Việt Nam. Trong
khuôn viên nhà vườn Huế có nhiều loại cây hoa màu sắc phong phú, cây cảnh tạo
dáng thẩm mỹ, cây bóng mát bốn mùa, cây ăn quả mùa nào thức nấy cùng với hòn non bộ, bể cá vàng,
chuồng chim cảnh... khiến cho khuôn viên nhà vườn Huế là một không gian sinh
động thu nhỏ, vừa có lợi ích kinh tế, vừa có hiệu quả thẩm mỹ nghệ thuật.
Trong công trình tôn giáo tín ngưỡng
Các loại cây thường được trồng trong vườn
của công trình tôn giáo tín ngưỡng là cây đa, cây si và cây đại... góp phần
tạo cảnh làm nơi nghỉ ngơi cho khách thập phương đến thăm viếng và hành lễ đồng
thời làm tôn giá trị nghệ thuật kiến trúc, tạo cảm giác thanh tịnh, trang
nghiêm cho công trình tôn giáo. Hoa sen là loại cây quen thuộc và
phổ biến trong kiến trúc Phật giáo.
Trong triều đình
Vườn
thượng uyển là vườn cảnh dành riêng cho nhà vua và hoàng gia cùng quan lại cao
cấp trong triều đình phong kiến thưởng thức và du ngoạn. Cố đô Huế của triều nhà Nguyễn còn để lại những khu vườn
cảnh có giá trị như: vườn Ngự uyển trong Tử
Cấm Thành Huế, vườn Cơ hạ trong Hoàng thành, vườn Tĩnh tâm, Dã viên nơi nuôi dã thú trong
một khu vườn trên cồn cát gữa sông Hương nơi được ví như hữu Bạch hổ ở phía Tây
thành phố Huế.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét