Thứ Hai, 7 tháng 7, 2014

NHIẾP ẢNH SỐ TOÀN TẬP - PHẦN 1

NHIP ẢNH SỐ TOÀN TẬP
(sưu tầm)

Mục lục:

NHIP ẢNH SỐ TOÀN TẬP - PHẦN 1
I, Overture

II, Máy ảnh số và nhiếp ảnh số
II-1.        Chọn máy ảnh
II-2.        Có những gì trong một dCam?
II-3.        Thẻ nhớ: không còn bí ẩn
II-4.        Sự khác biệt giữa máy ảnh số và máy ảnh cơ
II-5.        Xsync, Hsync, Exposure time, Flash photography
II-6.        Kính lọc

III, Kỹ thuật chụp ảnh
III-1.      Kỹ thuật căn bản
III-2.      Nguyên tắc chụp ảnh
III-3.      Độ nét sâu của trường ảnh
III-4.      Tốc độ chụp ảnh
III-5.      Các chế độ đo sáng
III-6.      Các hiệu chỉnh khác

IV, Ngôn ngữ nhiếp ảnh
IV-1.     Less is more
IV-2.     Tương phản trong Nhiếp ảnh
IV-3.     Quy tắc bố cục tranh phong cảnh
IV-4.     Bố cục ảnh
IV-5.     Yếu tố phụ trong bố cục
IV-6.     Đường nét trong bố cục
IV-7.     Bố cục và sáng tạo
IV-8.     Các yếu tố hình họa của hình ảnh
IV-9.     Những quy tắc, định luật Nhiếp ảnh
-----------------------------------------------
NHIP ẢNH SỐ TOÀN TẬP - PHẦN 2

V, Các thể loại nhiếp ảnh thông dụng
V-1.       Chụp ảnh chân dung
V-2.       Ánh sáng trong ảnh chân dung
V-3.       Chụp ảnh phong cảnh
V-4.       Chụp close up và ảnh hoa
V-5.       Chụp ảnh báo chí

VI, Xử lý ảnh
VI-1.     Hiểu thêm v các thông số của ảnh
VI-2.     RAW vs JPEG
VI-3.     Kỹ thuật chuyển ảnh mầu sang đen trắng
VI-4.     Kỹ thuật xử lý ảnh Đen Trắng trong buồng tối
VI-5.     Tối ưu ảnh trước khi up lên site
VI-6.     Làm border ảnh bằng Photoshop và vấn đ giữ exif
VI-7.     Khắc phục Out nét
VI-8.     Cứu ảnh bị xóa trên thẻ nhớ
VI-9.     In ảnh tại Labs

VII, Mẹo vặt và hỏi đáp
VII-1.        Kinh nghiệm chụp cho người mới bắt đầu
VII-2.        Tạo hiệu ứng sao cho đèn đêm mà không cần kính lọc
VII-3.        Hiệu ứng zoom
VII-4.        Mẹo đo sáng thay thế
VII-5.        Bồi đèn trong chụp tốc độ chậm
VII-6.        Kính lọc màu cho đèn và ống kính:
----------------------------------------------

NHIP ẢNH SỐ TOÀN TẬP - PHẦN 3

VIII, Kinh nghiệm xem ảnh
VIII-1.     Nghệ thuật xem ảnh
VIII-2.     Tăng giảm bù trừ sáng (EV+/-)
VIII-3.     Bù trừ sáng (EV)
VIII-4.     Kinh nghiệm đo sáng
VIII-5.     Đặt tên cho ảnh
VIII-6.     Bóng đổ - bóng ngả - bóng đối xứng - bóng khối
VIII-7.     Tone màu?
VIII-8.     Chế độ chụp
VIII-9.     Lấy nét - chế độ màu
VIII-10.  AEB

IX, Kinh nghiệm chụp ảnh
IX-1.     Chụp cảnh hoàng hôn
IX-2.     Cỡ ảnh, kỹ thuật chụp đêm
IX-3.     Chụp ảnh lưu niệm
IX-4.     Chụp ảnh khi trời mưa
IX-5.     Chụp ảnh khi trời gió
IX-6.     a đêm và những tia chớp
IX-7.     Chụp ảnh trong sương mù
IX-8.     Chụp ảnh khi tuyết rơi
IX-9.     Chụp ảnh biển
IX-10.  Chụp ảnh chân dung
IX-11.  Chụp pháo hoa
IX-12.  Chụp ảnh nội thất
IX-13.  Căn chỉnh màn hình máy tính của bạn

X, Nhiếp ảnh - Lý luận phê bình
X-1.       So sánh Canon và Nikon
X-2.       Noise – vỡ hạt ảnh
X-3.       Xử lý bụi bám trên sensor
X-4.       Khẩu độ sáng
X-5.       Nghệ thuật và sự dung tục
X-6.       Hệ số nhân tiêu cự
X-7.       Ảnh đen trắng trong thời đại số
X-8.       Bố cục - hội họa và nhiếp ảnh?

XI, Thông tin v sách

---------------------------------



NHIP ẢNH SỐ TOÀN TẬP - PHẦN 1
I, Overture

Lời đầu tiên xin được cảm ơn công nghệ kỹ thuật số hay nói chính xác hơn là các chuyên gia của lĩnh vực này đã và đang miệt mài làm việc để mỗi ngày kỹ thuật số lại mang đến cho người sử dụng những khả năng kỳ diệu hơn, trong đó có các máy ảnh "Digital". Quay ngược dòng thời gian, chỉ 5 năm trước dây thôi, thì khái niệm "Nhiếp ảnh" có một cái gì đó đặc biệt và xa vời đối với đại đa số những người không làm trong ngh có liên quan tới ảnh. NTL vẫn còn nhớ hồi năm 1999, để có thể mua một chiếc Nikon Coolpix 950 với 1,9 Mpix, chậm như rùa thì bạn phải chi ra khoảng 900$ đấy là chưa nói đến giá của các loại thẻ nhớ! Năm 2004 là một năm đáng nhớ vớinhững phát triển vượt bậc của kỹ thuật số trong nhiếp ảnh. Sự hoàn thiện với tốc độ đáng kinh ngạc trong tất cả các dòng máy ảnh sốcũng như giá thành của chúng bắt đầu rơi xuống ngưỡng mà ai cũng có thể mơ ước cho mình một chiếc dCam bỏ túi xinh xắn và tiện lợi. Như thế nhiếp ảnh đang từ một lĩnh vực đặc biệt đã nghiễm nhiên đi vào đời sống của xã hội hiện đại như một thiết bị không thể nào thiếu được. Sự bùng nổ của các thiết bị chụp ảnh có thể được kể đến từ "Web Cam", PDA, điện thoại di động, máy quay phim có tính năng chụp ảnh...và dĩ nhiên là các loại máy ảnh dCam mà sự xuất hiện của chúng nhiu và thay đổi nhanh đến mức nếu không theo dõi hàng ngày thì khó biết được tên của những loại máy mới ra trên thị trường. Như thế công nghệ mới đã làm thay đổi khá nhiu thói quen truyn thống và tạo nên những điu bất ngờ không ai dám hình dung dù chỉ trước đó mấy năm. Tháng 9-2003, hãng Kodak, nổi tiếng v các sản phẩm phim ảnh, tuyên bố ngừng việc nghiên cứu và chế tạo phim âm bản (tuy nhiên hồi cuối năm 2004 Kodak vẫn lặng lẽ cho ra thị trường hai loại phim mới ISO 200 và 800 có chất lượng cực hoàn hảo). Thị trường thiết bị cho ảnh đen trắng nhà ngh thất thu đến mức báo động và một loạt nhà máy trên toàn châu Âu đóng cửa. Và hãng sản xuất thiết bị nhiếp ảnh lừng danh ILFORD sau 125 năm tồn tại cũng đang phải lo lắng v số phận của mình trong vài ba năm tới. Chưa bao giờ trong lịch sử nhiếp ảnh của thế giới người tiêu dùng nghiệp dư có thể mua những chiếc SLR với tính năng thật hoàn hảo mà chỉ hết có vài trăm USD - nên nhớ rằng những chiếc dSLR có tính năng tương đương trị giá hàng nghìn USD! Có lẽ chiếc Nikon F6 sẽ là tượng đài cuối cùng của thế hệ máy SLR từng một lần làm nên lịch sử? Lĩnh vực chuyên nghiệp duy nhất chưa bị đụng chạm tới nhiu là các nhiếp ảnh gia sử dụng máy chụp phim tấm khổ lớn "Large Format" và "Moyen Format", lý do thật giản dị: các "Back" kỹ thuật số chưa thật sự vượt trội hơn khả năng thể hiện của phim cổ điển. Tuy nhiên thị thường phim cho loại máy này cũng đang thu hẹp dần, ít sự lựa chọn hơn trước. Công nghệ kỹ thuật số có những đòi hỏi của riêng nó mà sự tương thích kỹ thuật với các loại thiết bị dùng cho thân máy SLR, đặc biệt là ống kính, không phải bao giờ cũng làm hài lòng người tiêu dùng. Một nhiếp ảnh gia hành ngh từ 30 năm nay với một gam ống kính hoàn hảo bỗng ngỡ ngàng nhận ra "tài sản" của mình không phải lúc nào cũng đáng giá với những thân máy ảnh dSLR mới. Bây giờ không còn ai ngạc nhiên với việc này nữa, tất cả đu hy vọng và chờ đợi một điu sẽ tới nằm ngoài khả năng kiểm soát của chính mình. Một vài dòng sơ qua v tình hình của thị trường kỹ thuật máy ảnh trên thế giới trước khi bước vào những lĩnh vực khác nhau của nhiếp ảnh số.


II, MÁY ẢNH SỐ VÀ NHIẾP ẢNH SỐ:

II-1, CHỌN MÁY ẢNH
Ngay lập tức NTL muốn nói với các bạn rằng không phải ai có máy ảnh thì cũng đu là nhiếp ảnh gia cả. Nó giống như việc ngay bây giờ nếu có ai đó tặng bạn một chiếc Ferrary thì bạn cũng không thể ngay lập tức trở thành Schumacher! Tất cả đòi hỏi một quá trình học hỏi và rèn luyện không ngơi nghỉ. Ta không nên nhầm lẫn giữa việc thật sự sáng tạo trong chụp ảnh có tư duy với những hình ảnh chụp theo kiểu may rủi của khách du lịch. Và cho dù bạn đang sử dụng chiếc dSLR hiện đại nhất trên thế giới thì cũng không được quên rằng chất lượng hình ảnh kỹ thuật số vẫn chưa đạt được sự tinh tế của phim cổ điển đâu nhé. Tuy nhiên với một chiếc dCam trong tay bạn hoàn toàn có thể mơ ước chụp được những tấm ảnh đẹp chứ không phải lúc nào cũng cần phải tiêu đi vài nghìn USD cho mục đích này mà đôi khi nó lại trở thành phản tác dụng. Có một vài điu nhỏ nữa mà NTL muốn nói với những bạn nào mới hôm nay bước chân vào thế giới của những hình ảnh số đầy hấp dẫn này:

1. Bạn không nhất thiết phải hiểu cấu tạo điện tử và cách xử lý kỹ thuật số trong máy ảnh để có thể sử dụng chúng. Điu này giống như không cần biết cấu tạo xe ô-tô vẫn có thể lái xe ngon lành.

2. Máy ảnh đắt tin không 100% đồng nghĩa với ảnh đẹp

3. Số lượng "pixels" nhiu hơn không có nghĩa là ảnh sẽ đẹp hơn. Nó còn phụ thuộc vào rất nhiu yếu tố khác nữa

4. Máy ảnh BCam có zoom cực mạnh không phải lúc nào cũng là nim tự hào của chủ nhân mặc dù nó được trang bị thêm cả hệ thống chống rung cho hinh ảnh, rất có ích nhất là khi chụp ở vị trí télé.

5. Không thể đòi hỏi chất lượng ảnh cao, tốc độ thao tác nhanh với loại máy ảnh dCam nhỏ.

6. Máy ảnh dSLR không đồng nghĩa với việc ảnh sẽ...tự động đẹp hơn.

7. Việc bạn có môt chiếc máy ảnh dSLR tốt nhất không quan trọng bằng việc bạn biết khai thác nó để chụp ảnh đẹp.

8. Hiện tại, không phải ống kính nào tốt với SLR thì cũng sẽ cho ảnh đẹp với dSLR

9. Những gì bạn "nhìn" thấy trên màn hình máy tính không phải bao giờ cũng giống với ảnh "in" ra trên giấy đâu nhé.

10. Cuối cùng, nên biết mình mua máy ảnh dùng để làm gì? chụp cái gì? Thông tin kỹ thuật là để biết cách khai thác triệt để ưu, nhược điểm của máy chứ không dùng để...khoe.
Để có thể chụp được ảnh đẹp thì điu đầu tiên cần biết là hiểu và nắm vững cách sử dụng các chức năng của máy ảnh số. Bởi vì nó là một lĩnh vực chuyên ngành nên không phải lúc nào cũng dễ hiểu với tất cả mọi người, ngay cả với những người rất thành thạo ngôn ngữ được sử dụng trong sách hướng dẫn.
Chúng ta hãy cùng tìm hiểu sơ qua v cấu tạo của một chiếc máy ảnh kỹ thuật số.
Cầm một chiếc dCam hay BCam trên tay ta có thể quan sát thấy cấu tạo chính của chúng bao gồm một thân máy ảnh có khuôn ngắm, màn hình LCD...và một chiếc ống kính. Với đa số các máy dCam, sau khi ta bấm nút ON/OFF v vị trí ON thì ống kính sẽ nhô ra và sẵn sàng hoạt động. Trên b mặt phía trước của ống kính, tại vin của ống kính thường có các thông số kỹ thuật của chiếc ống kính này, chẳng hạn:
dCam Canon A95: "Canon Zoom Lens 3x; 7,8 - 23,4 mm 1: 2,8-4,9"

Trong "Specifications" của máy ảnh, Canon đã đưa thông tin v tiêu cự tương đương với khổ phim 35mm là 38-114mm. Khẩu độ ống kính của nó thay đổi từ f/2,8 ở vị trí ống kính góc rộng Wide, đến f/4,9 ở vị trí tele T. Điu mà chúng ta cùng quan tâm tại đây chính là thông số "tương đương" này. Các giá trị "7,8 - 23,4 mm" là thông số vật lý cấu tạo của ống kính trước khi được nhân thêm với hệ số hoán đổi của Sensor. Lý do: kích thước của mạch cảm quang điện tử Sensor bé hơn kích thước của phim (24x36mm).
Vậy các thông số của ống kính giúp ta điu gì? Rất đơn giản, nó cho ta biết góc "nhìn" của ống kính rộng hay hẹp. Khi chụp ảnh phong cảnh hoặc một đám đông thì vị trí ống kính góc rộng sẽ rất thích hợp với một góc nhìn lớn, cho phép lấy được nhiu cảnh. Ngược lại, khi ta muốn chụp một chi tiết, kiến trúc chẳng hạn, ở trên cao thì góc nhìn hẹp của vị trí ống kính Tele sẽ rất hữu ích. Ống kính zoom có lợi thế là bạn có thể thay đổi tiêu cự của ống kính cho phù hợp với khuôn hình lựa chọn mà không cần phải thay đổi vị trí đứng chụp ảnh.

Thế còn chỉ số "3x" của zoom? Nếu bạn lấy 114 mm: 38 mm thì sẽ tìm được giá trị này đấy. Sự khác biệt lớn nhất của máy ảnh số là việc phim ảnh thông thường đã được thay thế bằng mạch cảm quang điện tử Sensor.
Trong một chiếc máy ảnh dCam và BCam thì Sensor đảm nhận công việc của tất cả các thao tác kỹ thuật từ đo sáng, canh nét tới xử lý hình ảnh. Điu này giải thích tốc độ xử lý chậm của các dòng máy này. Thông số nổi tiếng nhất mà ai cũng biết v máy ảnh số chính là số lượng
"pixel" của sensor thông qua ký hiệu "Mpix". Trong ví dụ trên đây máy ảnh dCam Canon A95 có "5 Mpix". Điu này nói lên cái gì? Thứ nhất nó cho ta biết rằng ảnh chụp ở 5 Mpix có thể phóng to lên khổ ảnh A4 với chất lượng khá tốt. Thứ hai nó cho ta biết rằng ảnh chụp ở 5 Mpix sẽ được thể hiện chi tiết kỹ lưỡng hơn là ảnh chụp tại 3 Mpix chẳng hạn.
Xin được nhắc lại là riêng số lượng pixel không quyết định chất lượng của một tấm ảnh số.
 
Với tấm hình này bạn hoàn toàn có thể hình dung ra cấu tạo của một chiếc máy ảnh số, trên nguyên lý chung. Máy ảnh BCam Minolta Dîmage 7.

Với các máy ảnh chụp phim thì để khuôn hình ta dùng khuôn ngắm trên thân máy ảnh. Các máy ảnh số dCam và BCam vẫn duy trì khả năng này nhưng chất lượng của các khuôn ngắm rất kém và thường không bao phủ hết trường ảnh thực. Các khuôn hình điện tử của máy BCam chỉ cho phép khuôn hình chung chung chứ không thể thao tác chính xác. Chính vì thế mà máy ảnh số được trang bị thêm một màn hình tinh thể lỏng LCD để trợ giúp việc khuôn hình. Hình ảnh mà bạn nhìn thấy trên LCD sẽ là hình ảnh được ghi lại trong tấm ảnh số. Nhược điểm của màn hình LCD là rất khó nhìn khi trời nắng to và nó hiển thị mầu không chính xác. Bạn không nên tin tưởng vào kết quả ảnh hiện thị trên LCD, cách tốt nhất là xem lại trên màn hình máy tính đã được căn mầu chuẩn.

Chú thích: ảnh minh họa có nguồn từ site Dpreview.
Nhiếp ảnh, nếu nói theo nghĩa gốc từ lúc nó mới được phát minh, "héliographie", là "viết bằng ánh sáng" (écriture avec le soleil) điu này giúp ta hiểu được tầm quan trọng của ánh sáng trong nhiếp ảnh. Bỏ qua những định nghĩa hàn lâm ta có thể hiểu rằng hình ảnh thu được trên sensor của máy ảnh được tạo nên bởi một lượng ánh sáng nhất định đi qua ống kính máy ảnh, trong một thời gian nhất định.

Yếu tố thứ nhất "lượng ánh sáng" được khống chế bởi các lam kim loại - diaphrams, nằm trong ống kính mà trị số quen thuộc của nó thường được thấy là "f" hoặc "F" - khẩu độ ống kính. Thực chất các lam kim loại này có nhiệm vụ tạo một lỗ mở trên thấu kính với một đường đính xác định. Trong các sách v nhiếp ảnh ta hay thấy viết "f:8" hoặc "f/8". Ký hiệu của chức năng chỉnh khẩu độ ống kính trên máy ảnh thường hay được thấy viết "Av" hoặc "A".

Yếu tố thứ hai "thời gian" thường được biểu thị bằng "1/giây", ví dụ 1/250 giây. Đây là thời gian để thao tác một kiểu ảnh tương ứng với một khẩu độ ống kính "F". Bộ phận điu khiển tốc độ chụp ảnh gọi là "ổ trập" của máy ảnh - shutter. Cặp giá trị F và tốc độ luôn đi lin với nhau và gắn bó mật thiết trong từng thay đổi nhỏ. Ký hiệu của chức năng chỉnh tốc độ chụp trên máy ảnh thường hay được thấy viết "Tv" hoặc "S"...
Trong các máy ảnh dCam và BCam không có hệ thống cơ khí riêng biệt để điu chỉnh tốc độ chụp ảnh. Chính sensor của máy ảnh đảm nhiệm chức năng này theo nguyên tắc nhị phân "đóng/mở".

Một yếu tố nữa có ảnh hưởng tới việc thao tác chụp ảnh đó là độ nhạy "ISO". Đây là một chuẩn quốc tế rất thông dụng mà khi ra cửa hàng mua phim bạn thường được hỏi là chọn loại phim nào? ISO 100? ISO 200?...Khi bạn tăng độ nhạy ISO nghĩa là bạn muốn tăng tốc độ chụp ảnh với cùng một khẩu độ ống kính "F" cố định. Hoặc ngược lại, bạn muốn khép sâu hơn khẩu độ ống kính với một tốc độ chụp ảnh cố định. Độ nhạy càng thấp thì ảnh càng mịn và độ nhạy càng cao ảnh càng nhiu hạt. Trong lĩnh vực kỹ thuật số điu này được hiểu là ISO càng cao ảnh càng có nhiu "nhiễu" - noise. Với các máy ảnh dCam & BCam bạn thường gặp độ nhạy từ ISO 50, 100, 200, 400, 800...nhưng do kích thước hạn chế của sensor nên ảnh sẽ bị nhiễu rất mạnh với các ISO lớn hơn 200.

 Vì thế khuyến cáo đầu tiên của NTL với các bạn đang dùng dCam & BCam là nó hạn chế ISO ở 200. Nếu tốc độ chụp ảnh tương ứng với ISO 200, trong điu kiện ánh sáng cụ thể, với một giá trị F xác định, lâu hơn 1/30 giây thbạn nên dừng chụp ảnh để tránh cho ảnh bị rung.
Kỹ thuật số đồng thời cũng mang lại cho ta nhiu thói quen mới lạ mà trước đây thường chỉ dành riêng cho giới chuyên nghiệp. Trong "Menu" của máy bạn sẽ thấy có một thông số kỹ thuật viết tắt là "WB" - White Balance, nó làm nhiệm vụ thiết định chế độ mầu cho ảnh chụp. Điu này không xa lạ với những ai đã từng dùng phim "Daylight" và phim "Tungsten". Như các bạn đã biết, ứng với mỗi một đikiện ánh sáng khác nhau thì mầu sắc của vật thể cũng khác nhau. Chính vì thế mà ta cần dùng "WB" - cân bằng trắng, để đưa mầu của ảnh v gần nhất với mầu thực tế. Giới chuyên môn dùng thuật ngữ "nhiệt độ mầu" tính theo độ Kenvin nhưng chúng ta tạm thời có thể quên nó đi mà vẫn có thể chụp ảnh đẹp. Còn máy ảnh dCam & BCam gần đây có chức năng "Auto WB" khá hoàn chỉnh nhưng NTL khuyên bạn nên chủ động lựa chọn chế độ WB theo điu kiện ánh sáng cụ thể. Một vài ghi nhớ: WB ánh sáng mặt trời cho mầu trung tính, WB trời nhiu mây cho ảnh có tông ấm, WB trong bóng râm tăng sắc độ mầu lên rất mạnh, WB đèn vàng sẽ khử rất nhiu mầu vàng trong ảnh...

Ghi nhớ: cặp thông số khẩu độ ống kính "F" vtốc độ chụp ảnh 1/giây gắn lin với độ nhạy ISO

Tài liệu tham khảo chuyên sâu:
Độ nét sâu của trường ảnh DOF
Tốc độ chụp ảnh
Khi bạn mới chuyển từ dùng máy ảnh chụp phim "compact" sang dùng dCam & BCam thì chắc hẳn không ít người thắc mắc v sự thay đổi từ cuộn phim vỏ cứng sang tấm thẻ nhớ - "memory card" bằng nhựa nhỏ xíu với các chân tiếp xúc kim loại. Tuy cùng mang chức năng lưu trữ ảnh chụp nhưng hoạt động của chúng lại không hoàn toàn giống nhau. Nếu như Agfa đã gọi các thẻ nhớ này là "digital film" thì chức năng của chúng lại chỉ đơn thuần để lưu ảnh đã được xử lý bằng mạch điện tử nằm trong thân máy ảnh. Trong khi đó các phản ứng hoá học lại xảy ngay ra trên b mặt của phim cổ điển. Để có thể dễ hình dung hơn v quá trình này ta có thể thiết lập sơ đồ hoạt động căn bản của máy ảnh kỹ thuật số dCam & BCam như sau:

Vật ảnh --> Ống kính --> Sensor --> Hệ thống xử lý ảnh của dCam & BCam --> Hình ảnh lưu trên Thẻ nhớ
Trên thế giới hiện tại có rất nhiu loại thẻ nhớ, mỗi hãng chế tạo ưu tiên chọn loại thẻ nhớ chuyên dụng cho các gam máy ảnh của mình tùy theo chiến lược phát triển của họ. Điu này không h có nghĩa là nếu so sánh cùng gam thì thẻ nhớ CF tốt hơn MS chẳng hạn. Điu mà bạn cần quan tâm nhất là chất lượng chế tạo và độ ổn định của các loại thẻ nhớ này. Lời khuyên của NTL là bạn nên tránh đừng cắm loại thẻ nhớ "no-name" đơn giản vviệc bị hỏng thẻ, mất ảnh là rất phổ biến.
Vậy thì nên dùng các tiêu chuẩn nào để chọn thẻ nhớ cho máy ảnh của mình? NTL thử đưa ra một số điểm chính:

1. Chất lượng thẻ nhớ: ưu tiên các thương hiệu có uy tín như Lexar, Sandisk, Delkin... Các thẻ nhớ của chính hãng như Canon, Nikon, Hitachi... không h chứng tỏ rằng chúng có chất lượng tốt hơn các nhà chế tạo thứ 3.

2. Dung lượng thẻ nhớ: ta đu biết rằng thể nhớ càng lớn thì càng đắt. Bạn nên căn cứ vào nhu cầu chụp ảnh của mình rồi sau đó là số lượng pixel của dCam & BCam. Nếu bạn là người chụp ảnh du lịch đơn giản, dùng máy ảnh <4Mpix thì một chiếc thẻ nhớ loại 256Mb là đủ cho một ngày đi chơi. Nếu máy của bạn có từ 5Mpix trở lên thì nên ưu tiên dùng thẻ 512Mb. Bạn dùng máy BCam 8Mpix thì loại thẻ 1Gb sẽ hấp dẫn.
Tuy nhiên, vì lý do an toànbạn nên thận trọng dùng 2 chiếc 512Mb thay cho 1 chiếc 1Gb, đơn giản vì nếu thẻ nhớ bị hỏng bạn sẽ chỉ mất có 512Mb ảnh mà thôi.
 Những loại thẻ nhớ dung lượng đặc biệt lớn 2Gb, 4Gb...là để thỏa mãn như cầu chụp ảnh thể thao, trọng lượng ảnh lớn... chúng chẳng nói lên giá trị gì khác cả.
3. Tốc độ của thẻ nhớ: khi đi mua thẻ nhớ chắc hẳn bạn không tránh khỏi hoang mang v các thông số tốc độ "x"? Thật ra để hiểu nó rất đơn giản. Với mỗi một “x1” thì bạn có tốc độ tương đương là 150 Kb/ giây. Như thế số lượng “x” càng lớn thì tốc độ làm việc của thẻ nhớ càng nhanh. Bạn có thể tham khảo bảng tốc độ ghi dưới đây:

4X = 600KB/sec.
12X = 1.8MB/sec.
16X = 2.4MB/sec.
32X = 4.8MB/sec.
40X = 6.0MB/sec.
Các thẻ nhớ hiện hành có loại lên trên 80X nhưng bạn đừng để mình bị rối trí vì thông số này. Đa phần các máy dCam & BCam có tốc độ ghi ảnh lên thẻ nhớ khá chậm (tốc độ đọc ảnh từ thẻ nhớ cũng chậm) nên bạn không cần thiết phải mua loại thẻ nhớ có nhiu "X".
Với dCam thì các thẻ nhớ có tốc độ 32X là đủ dùng, với BCam thì loại máy thao tác nhanh nhất cũng chưa thể vượt qua ngưỡng 40X.
Như vậy với dCam và BCam bạn chỉ cần mua thẻ nhớ loại tiêu chuẩn hoặc "Ultra" là đủ.
Dĩ nhiên là nếu như bạn dùng đầu đọc thẻ nhớ USB 2.0 thì các loại thẻ nhớ tốc độ cao sẽ cho phép thao tác "copy" ảnh vào máy tính nhanh hơn.

Tìm hiểu kỹ thuật chuyên sâu:
Thẻ nhớ: không còn bí ẩn
Nếu như trước đây người dùng nghiệp dư ít quan tâm quá đến cấu trúc của phim và tính năng thể hiện của nó thì ngày nay với kỹ thuật số lại có không ít thắc mắc v việc chọn và sử dụng cấu trúc của ảnh. Nhìn chung cả  dCam & BCam có cấu trúc (format)
ảnh sau: JPEG, TIFF, RAW. Trong đó JPEG là tiêu chuẩn quốc tế v cấu trúc ảnh phổ thông nhất, TIFF là tiêu chuẩn của công nghiệp thiết kế, in ấn...còn RAW là cấu trúc ảnh đặc trưng của từng nhà sản xuất máy ảnh. Thế sự khác nhau giữa các cấu trúc ảnh này gì và ưu nhược điểm của chúng?
NTL muốn lưu ý các bạn rằng chỉ có các máy dCam cao cấp và BCam mới có thể có cả 3 cấu trúc này. Thông thường các máy dCam dùng cấu trúc ảnh JPEG, các máy BCam có thêm RAW và TIFF. Cấu trúc JPEG là ảnh đã chịu "nén" - có nghĩa là ảnh nhẹ hơn nhưng chất lượng ít nhiu bị giảm sút, tuỳ theo mức độ nén cao hay thấp. Cấu trúc TIFF là chuẩn dùng để trao đổi khi in ấn, nó tạo thuận lợi trong việc sử dụng cùng một hình ảnh trong nhiu bộ phận làm việc mà vẫn luôn đảm bảo chất lượng chính xác lúc in ra. Ảnh TIFF có trọng lượng rất nặng. Cuối cùng là ảnh RAW, nghĩa đen của nó trong tiêng Anh có thể hiểu là ảnh "thô" hay tương đương như ảnh thu được trên phim cổ điển. Ảnh RAW thường có trọng lượng nặng nhưng nó là loại cấu trúc có chất lượng ảnh cao nhất và cho phép người sử dụng khả năng thao tác hiệu chỉnh thêm sau khi ảnh đã chụp. Tiện lợi của ảnh RAW có thể được thấy như hiệu chỉnh kết quả đo sáng Ev, hiệu chỉnh "WB", độ sắc nét, độ tương phản...Những thao tác này đòi hỏi việc sử dụng thêm các phần mm chuyên dụng của nhà chế tạo hay PS CS. Vậy nên sử dụng cấu trúc ảnh nào ? Câu trả lời của NTL rất đơn giản: nó tùy  thuộc vào mục đích sử dụng của bạn.
1. Nếu bạn chụp ảnh sinh hoạt gia đình, du lịch...trong điu kiện ánh sáng cân bằng thì cấu trúc ảnh JPEG là hoàn toàn đủ. Nó cho phép bạn in trực tiếp ra máy in hay ngoài Lab với chất lượng đẹp.

2. Nếu bạn có chủ ý chụp ảnh nghệ thuật hay gặp những trường hợp ánh sáng khó khăn mà không chắc chắn v thao tác kỹ thuật của mình thì nên dùng RAW. Nó cho phép bạn thao tác nhanh hơn và có thể hiệu chỉnh thêm với máy tính sau này.
Cấu trúc TIFF có lẽ chỉ thật sự mang lại hiệu quả của nó với những người sử dụng Pro trong công nghệ thiết kế và in ấn. Tuy nhiên nếu bạn thành thạo v kỹ thuật thì có thể hoàn toàn chụp ảnh nghệ thuật bằng cấu trúc JPEG mà ảnh vẫn đẹp.
Thế còn việc chọn kích thước của ảnh cùng độ tinh xảo? NTL khuyênbạn nên chọn "L" và "Fine", trong trường hợp gần hết thẻ nhớ thì bạn có thể đổi sang dùng M nhưng luôn với "Fine". Việc chọn kích thước ảnh lớn "L" sẽ cho phép bạn khuôn lại hình thoải mái hơn mà vẫn in được khổ ảnh như ý. Khi xem lại ảnh trên máy tính có nhiu bạn thắc mắc v thông số hiển thị "72 dpi" và "300 dpi"...chẳng hạn.
Đây đơn giản chỉ là thiết định cho hiển thị màn hình của từng nhà chế tạo. NTL xin được nhắc lại rằng để tính toán độ phân giải chính xác cho tấm ảnh của mình bạn chỉ việc lấy số pixels chia cho chiu dài theo "inch" của mỗi cạnh ảnh (1 inch = 2,54cm).
Một thắc mắc rất phổ biến nữa là khi in ảnh kỹ thuật số ngoài Lab nhiu bạn cho rằng nhất thiết phải chỉnh kích thước của ảnh theo đúng khổ ảnh mà mình muốn in, ví dụ 10x15cm. Điu này là chưa chính xác. Vấn đ  mà bạn quan tấm nhất khi in ảnh ltỉ lệ của hai cạnh của tấm ảnh. Thông thường các máy dCam & BCam cho ảnh với tỉ lệ 4:3 (giống như TV) trong khi đó tỉ lệ các cạnh của giấy ảnh ngoài Lab là 3:2 (ở châu Âu đã có loại giấy ảnh chuyên dụng 4:3 từ rất lâu rồi). Vấn đ nằm ở chố là nếu như bạn giữ nguyên tỉ lệ "Ratio" ảnh 4:3 thì khi in trên giấy 3:2 sẽ có một vin trắng ở bên cạnh ảnh. Có mấy giải pháp để xử lý vấn đ này: hoặc bạn tự khuôn lại hình theo tỉ lệ 3:2 bằng các phần mm xử lý ảnh kiểu PS CS, ACDsee 7.0...hoặc bạn đ nghị Lab chủ động "xén" ảnh của mình theo ý họ khi in. Bạn nên tránh việc dùng các phần mm không chuyên dụng để thay đổi kích thước ảnh vì chúng sẽ làm giảm chất lượng ảnh của bạn. Thông thường các máy ảnh 6 Mpix cho phép in ảnh tới khổ 30x40 với chất lượng có thể chấp nhận được, các máy ảnh 5 Mpix cho phép in ảnh tới khổ 20x25, các máy ảnh nhỏ hơn 4 Mpix chỉ nên in ở khổ 13x18. Các máy BCam 8 Mpix cũng chỉ in đẹp tại 30x40 mặc dù bạn có thể đ nghị phóng ra khổ 40x50cm chẳng hạn. Ta sẽ quay lại các thao tác cho việc in ảnh sau này.
Như vậy đến đây ta đã đ cập tới những yếu tố căn bản nhất để bạn có thể bắt đầu chụp ảnh với dCam & BCam. Trong bài viết tiếp theo NTL sẽ đi sâu vào các thao tác kỹ thuật của máy ảnh.

Tìm hiểu kỹ thuật chuyên sâu:
RAW vs JPEG

II-2, CÓ NHỮNG GÌ TRONG MỘT DCAM?
Mới chỉ vài năm trước đây thôi việc sở hữu một chiếc máy ảnh số còn là cả một vấn đ trong khi chất lượng hình ảnh chưa thật là cao.
Khi đó kỹ thuật số mới đang trong thời kỳ thử nghiệm. Nhưng ta cũng chưa thể nói ngày hôm này vấn đ này đã được giải quyết. Câu hỏi thường gặp của nhiu người sử dụng máy dCam là tại sao mình chụp ảnh không đẹp mặc dù máy mua rất đắt tin hay đây là một trong những loại máy tốt nhất rồi? Giống như đối với máy ảnh cơ, bạn có một chiếc máy tốt nhưng còn cần phải biết khai thác tối đa khả năng của chúng nữa. Có một người bạn đã hỏi tôi rằng máy ảnh Leica dạo trước khuôn ngắm lệch tâm, tiêu cự không tự động mà sao giá đắt thế? Ở đây người bạn ấy chỉ nhìn thấy mỗi sự khác biệt của hình thức mà chưa nhận ra giá trị của chất lượng ống kính cũng như h
thống cơ học tuyệt hảo đã đưa Leica lên vị trí số 1 của thế giới. Và bạn đã bao giờ tự hỏi rằng chiếc máy ảnh dCam mới mua của mình có thể làm được những gì chưa?
Hôm nay NTL sẽ cùng bạn lật từng trang cuốn "Manual Guide" và tìm ra cách làm tối ưu hoá hình ảnh kỹ thuật số của bạn nhé. Điu đầu tiên là cần hiểu thật đúng tất cả các thông số kỹ thuật và các ký hiệu trên máy.

TYPE OF CAMERA - Kiểu máy ảnh
Compact digital still camera with built-in flash - Trong cả câu này thì bạn hoàn toàn có thể an tâm mà bỏ qua từ "still" vì nó đơn giản chỉ là một cách viết để phân biệt chính xác giữa kỹ thuật số hình ảnh động và tĩnh (Still) mà thôi.
IMAGE CAPTURE DEVICE - Mạch điện tử cảm quang

Có 3 loại tất cả: CCD, CMOS, LBCAST.
Total Pixels Approx. - Đây là tổng số điểm ảnh (tính tương đối) của máy ảnh
LENS - Ống kính
Focal Length - Tiêu cự
35mm film equivalent: - Tính tương đương với máy ảnh cơ.
Digital Zoom - Zoom kỹ thuật số, một khả năng mới nhưng chất lượng hình ảnh thường rất...xấu.
Focusing Range Normal AF - Khả năng đo nét với tiêu cự tự động ở chế độ bình thường. Bạn sẽ thấy một khoảng cách tối thiểu và vô cực.
Macro AF - chụp ảnh cận cảnh với tiêu cự tự động. Thường sẽ có hai khoảng cách, một dành cho vị trí ống kính góc rộng (thường sẽ chụp được sát hơn) và một cho vị trí télé.
Autofocus 1-point AF - Đây là số lượng điểm tiêu cự tự động dùng để canh nét. Thường thì với loại máy Compact dCam thì sẽ có 1 điểm.
VIEWFINDERS - Khuôn ngắm
Optical Viewfinder - khuôn ngắm bằng quang học
LCD Monitor - Màn hình tinh thể lỏng để quản lý chụp và xem lại hình ảnh.
LCD Pixels Approx. Độ phân giải của màn hình LCD càng cao thì chất lượng càng đẹp.
LCD Coverage - Phần trăm (%) góc "nhìn" trường ảnh thực.
APERTURE AND SHUTTER - Khẩu độ sáng và Tốc độ chụp
Maximum Aperture - Bạn sẽ có 2 giá trị tối đa, một cho vị trí ống kính góc rộng (W) và một cho vị trí télé (T)
Shutter Speed - Tốc độ chụp
Slow shutter - Tốc độ chụp chậm, thời gian phơi sáng lâu.
EXPOSURE CONTROL - Đo sáng
Sensitivity -Các độ nhạy của máy tính bằng ISO
Light Metering Method - Các phương pháp đo sáng:
Evaluation (Đo sáng tổng hoà)/ Center-weighted average (Đo sáng trung tâm)/ Spot (Đo sáng điểm)
Exposure Control Method - Các chương trình đo sáng tự động được lập trình sẵn: Program AE (Tự động hoàn toàn),
Shutter-Priority AE (ưu tiên Tốc độ chụp),
Aperture-Priority AE (ưu tiên khẩu độ ánh sáng),
Manual (chụp bằng kỹ thuật cá nhân)
AE Lock - Đây là tính năng giúp bạn ghi nhớ chỉ số đo sáng của một điểm đặc biệt ưu tiên.
ND Filter - Kính lọc trung tính, có thể được gắn luôn trong máy rồi.
WHITE BALANCE - Cân bằng trắng
White Balance Control Auto (Chế độ tự động),
Pre-set chương trình đặt sẵn:
(Daylight (ánh sáng ban ngày),
Cloudy (trời nhiu mây),
Tungsten (ánh sáng vàng của đèn dây tóc),
Fluorescent (đèn nê-ông), Fluorescent H (đèn nê-ông mầu), or Flash), or Custom (thường đây là các vị trí bạn có thể cá nhân hoa cân bằng trắng theo ý mình)
FLASH
Built-in Flash Operation Modes - Các chế độ hoạt động của đèn gắn sẵn trong máy: Auto, Red-Eye Reduction On/ Off - chống mắt đỏ.
Flash Range : Cự ly hoạt động hiệu quả của đèn sẽ được tính theo ống kính góc rộng (WIDE) và Télé, thường tính theo độ nhạy 100 ISO.
Recycling Time Approx. - thời gian để đèn nạp điện và hoạt động bình thường giữa hai lần chụp.
Terminals for External Flash - Đây là chỗ để gắn thêm đèn Flash bên ngoài.
Automatic E-TTL: Đèn flash hoạt động bằng chế độ đo sáng qua ống kính (TTL = through-the-lens)
Flash Exposure Compensation - Đây là khả năng hiệu chỉnh cường độ sáng của đèn flash, tăng hay giảm tính bằng khẩu độ sáng +/-EV
(exposure value)
SHOOTING SPECIFICATIONS - Các chế độ chụp ảnh
Shooting Modes Auto, Creative (P (tự động hoàn toàn), Av (Ưu tiên khẩu độ sáng), Tv (ưu tiên tốc độ chụp), M (chỉnh theo kỹ thuật cá nhân), Custom 1, Custom 2 (cá nhân hoá)), Image - Các chế độ chụp đặt sẵn trong máy(Portrait (chân dung), Landscape (phong cảnh),
Night Scene (chụp buổi tối),
Stitch Assist (chụp ảnh quang cảnh rộng với chức năng ghép nhiu hình ảnh để tạo nên một ảnh duy nhất),
Movie (quay phim))
Self-Timer - Chụp ảnh tự động
Wireless Control - Điu khiển không dây từ xa.
Continuous Shooting High Speed:Chụp ảnh liên thanh, thường thì sẽ có thông tin v số lượng hình ảnh có thể chụp được trên 1 giây.
Photo Effects - Hiệu quả đặc biệt: Vivid (mầu sắc sống động), Neutral (màu trung tính), Low Sharpening (đường nét mm mại), Sepia
(màu giống như ảnh cũ)and Black & White (đen trắng)
IMAGE STORAGE - Thiết bị lưu trữ ảnh
Storage Media - Ở đây bạn sẽ có thông tin đầy đủ v loại "card" tương thích, kích thước ảnh, trọng lượng ảnh...
Các thông tin kỹ thuật trên đây được lấy dựa theo máy ảnh Canon PowerShot G5, trên máy của bạn có thể sẽ không có một số tính năng trên đây. Điu quan trọng là bạn hiểu rõ ràng chiếc máy mà mình đang sử dụng. Và chúng mình lại tiếp tục nhé...

II-3, THẺ NHỚ - KHÔNG CÒN BÍ ẨN
Bạn đang dùng một chiếc máy ảnh kỹ thuật số và thay vào vị trí của cuộn phim quen thuộc là một chiếc thẻ nhớ ("Memory Card" hay "Digital Film" như một số người ưa dùng...) - một miếng nhựa nhỏ bé và mỏng manh với những mạch điện tử ẩn giấu bên trong. Cô bán hàng dễ mến không ngớt lời khuyên bạn nên dùng loại thẻ 128 Mo hay 512 Mo...thêm vào đó là những từ "chuyên môn" như tốc độ x40...làm bạn bối rối. Chọn loại thẻ nào và...như thế nào? Hôm nay NTL sẽ cùng đi mua thẻ nhớ với bạn trên thị trường nhé. Nào chúng mình bắt đầu.
Như bạn đã biết mỗi một nhà chế tạo máy ảnh có một chủ trương khác biệt trong kỹ thuật ứng dụng, điu này dẫn tới việc các mác máy ảnh khác nhau sử dụng những loại thẻ nhớ khác nhau. Trên thị trường hiện tại có các loại thẻ nhớ phổ thông sau:


CompactFlash I (CF)
CompactFlash II / Microdrive

Secure Digital (SD)
Mini SD
Memory Stick (Format đặc biệt của hãng Sony - MS)
Memory Stick Duo
xD Picture Card (xD)
SmartMedia (Format đặc biệt của hãng Toshiba - SM)
MultiMediaCard (MMC)
Reduced Size MultiMediaCard

Tất nhiên bên cạnh đó còn có các loại thiết bị lưu trữ hình ảnh khác như "PCMCIA card", CD-RW kích thước nhỏ...Nhưng thông dụng nhất là loại thẻ nhớ CompactFlash mà bạn có thể thấy đa số các máy ảnh dSLR PRO vẫn dùng. Xếp hạng thứ 2 v sự thông dụng phải kể đến thẻ SD và MS. Những loại thẻ còn lại ít nhiu được sử dụng trong nhiu loại máy ảnh khác nhau. Bạn cũng có thể tìm thấy trên thị trường các loại máy ảnh có thể sử dụng cùng một lúc nhiu loại thẻ như CF+MS (với Sony DSC-V3) hay CF+SD…khả năng này giúp bạn có được một sự lựa chọn rộng hơn v dung lượng lưu trữ ảnh cũng như giá cả.

Trước tiên chúng minh sẽ tìm hiểu những khái niệm căn bản v thẻ nhớ nhé. NTL xin được lấy ví dụ bằng chiếc thẻ CF thông dụng nhất.
“CompactFlash Association (CFA) » là một tổ chức công nghiệp phi lợi nhuận, mục đích của nó là nhằm phát triển và khuyến khích việc sử dụng loại thẻ CF trên thế giới. Bạn có thể xem thêm thông tin ở đây: http://www.compactflash.org
Trên thị trường hiện tại thì thẻ CF có dung lượng từ 16 Mb đến 6 Gb, tuy nhiên cấu trúc của CF cho phép nó đạt tới 137 Gb. Thẻ CF chấp nhận điện năng sử dụng từ 3,3 V đến 5V. Các chân tiếp xúc của thẻ CF tương tự như cấu trúc của “PCMCIA Card” nhưng có tới 50 “pins”.

Môi trường sử dụng và độ bn.
Nhiệt độ cho phép CF hoạt động từ -40°C đến +85°C. Độ bn của thẻ CF cũng rất đáng khâm phục: nó có thể chịu được chấn động rơi từ độ cao 2,5 m và tuổi thọ trung bình trong điu kiện sử dụng bình thường là 100 năm! Các hệ điu hành của máy tính có thể dung được với thẻ CF: , Windows 3.x, Windows 95, , Windows 98, Windows CE, Windows 2000, Windows ME, Windows XP, OS/2, Apple System 7, 8, 9 & OS X, Linux và đa số các UNIX. Các dữ liệu (Data) của thẻ nhớ CF được bảo vệ bởi “built-in dynamic defect management and error correction technologies” đảm bảo độ an toàn cao nhất.

Tốc độ của thẻ nhớ.
Với mỗi một “x1” thì bạn có tốc độ tương đương là 150 Kb/ giây. Như thế số lượng “x” càng lớn thì tốc độ làm việc của thẻ nhớ càng nhanh. Bạn có thể tham khảo bảng tốc độ ghi dưới đây:
4X = 600KB/sec.
12X = 1.8MB/sec.
16X = 2.4MB/sec.
32X = 4.8MB/sec.
40X = 6.0MB/sec.
Loại thẻ nhớ mới nhất của CF với cấu trúc “Ultra II” cho phép bạn ghi thông tin với tốc độ x60 (9 Mb/s) và đọc thông tin trên thẻ với tốc độ x66 (10 Mb/s). Đây là cấu trúc được xếp hạng 1 trên thế giới hiện tại.
Tuy nhiên tốc độ đọc hay ghi thông tin trên thẻ nhớ còn phụ thuộc vào khả năng của máy ảnh nữa. Nếu bạn có một chiếc CF Ultra II mà dùng một chiếc dCam đời 2002 chẳng hạn thì sẽ không phát huy được hết tốc độ của thẻ đâu nhé. Ngược lại cho trường hợp dùng dSLR với loại thẻ CF tốc độ chậm, bạn sẽ mất thời gian chờ đợi giữa hai kiểu ảnh đấy (nhất là với độ phân giải lớn cỡ 6 Mpix)

Số lượng ảnh có thể lưu trên một thẻ nhớ
Dưới đây là các thông tin của Sandisk v số lượng ảnh mà bạn có thể chụp (không bị nén và chịu nén) với từng loại thẻ nhớ có dung lượng khác nhau.
Bạn có thể tìm thấy thông tin cụ thể v trọng lượng và kích thước ảnh trong Manuel của máy ảnh.
Những yếu tố làm ảnh hưởng tới trọng lượng ảnh của bạn:
- Độ phân giải: số lượng "pixel" càng lớn thì ảnh càng nặng
- Kích thước ảnh: tương quan với độ phân giải bạn có các kích thước L, M, S
- Chất lượng của ảnh: Fine, Normal, Standard.
- Mức độ chi tiết của ảnh: ảnh càng nhiu chi tiết thì trọng lượng càng nặng.

u ý: không phải máy ảnh nào cũng có khả năng dùng được các loại thẻ nhớ có dung lượng lớn trên 2 Go, bạn cần xem kỹ Manuel và làm Update cho máy trước khi mua thẻ. Tuy độ tin cậy của CF rất cao nhưng NTL khuyên bạn nên dùng nhiu thẻ 512 Mb hơn là dùng 1 chiếc thẻ 4 Go.
* Uncompressed image = ảnh không chịu nén
* Compressed image = ảnh đã bị nén để giảm trọng lượng

Chuyển giao ảnh từ thẻ nhớ vào máy tính.
Sau khi chụp ảnh thì bạn có nhiu cách để làm “copy” ảnh từ thẻ nhớ vào máy tính hay ghi lên đía CD-ROM, DVD-ROM…Cách phổ biến nhất là dùng ngay chiếc máy ảnh của bạn với dây cáp kèm theo và phần mm chuyên dụng của máy. Ưu điểm của phương pháp này là bạn không cần đầu tư thêm thiết bị và giao diện cũng rất dễ sử dụng. Tuy nhiên nhược điểm của nó lại nằm ở tốc độ chuyển giao thông tin, đa phần các máy dCam, BCam và một số dSLR hiện tại chỉ có giao diện USB 1.1 với tốc độ 12 Mb/giây trên lý thuyết. Nếu bạn có một chiếc thẻ 512 Mb đầy ảnh thì thời gian chuyển giao ảnh sẽ khá lâu đấy.

Giải pháp thứ 2 là mua một chiếc “8 in 1 Card Reader” (hay thỉnh thoảng vẫn thấy đ là “9 in 1” nhưng thật ra cũng đu là loại đầu đọc được nhiu loại thẻ mà thôi) với đường truyn USB 2.0. Ở đây NTL muốn nhấn mạnh tới yếu tố kỹ thuật USB 2.0 vì nhiu loại “Card Reader” cũ chỉ có USB 1.1 mà thôi. Tốc độ chuyển giao thông tin của USB 2.0 là 480 Mb/giây! Kết quả thì bạn đã có thể tự rút ra được rồi.
Nếu bạn dùng máy tính xách tay và không muốn phải mang theo đủ mọi thứ dây cáp nối thì bạn hoàn toàn có thể mua một chiếc
“PCMCIA 6-in-1 PC Card Adapter”.
Sử dụng đúng cách và bảo quản
NTL đã nghe khá nhiu thông tin đại loại như không nên dùng thẻ nhớ trên nhiu máy ảnh khác nhau vì sẽ bị…hỏng. Điu này là không chính xác. Nếu bạn tháo lắp thẻ nhớ đúng cách thì cấu trúc của nó không h bị thay đổi cho dù nó được dùng với nhiu loại máy ảnh khác nhau. Khi lắp thẻ nhớ vào máy ảnh bạn lưu ý để cho các khe trượt của thẻ CF khớp với các gờ của máy ảnh nhé và sau đó nhẹ nhàng ấn thẻ nhớ vào trong. Tương tự cho lúc tháo thẻ nhớ ra khỏi máy ảnh, bạn cần bấm nút đẩy thẻ nhớ ra một cách dứt khoát và nhẹ nhàng. Bạn cần lưu ý với các loại đầu đọc thẻ của Tầu nhé, giá rẻ nhưng thiết kế không chính xác sẽ làm hỏng các chân thẻ (pins) đấy.

Nếu bạn không sử dụng máy ảnh lâu ngày thì nên tháo thẻ nhớ ra khỏi máy, cất vào trong hộp nhựa của thẻ và để nơi khô ráo. Thẻ nhớ tuyệt đối phải được tránh bụi và độ ẩm cao.
Với một vài hiểu biết và kinh nghiệm cá nhân, NTL hy vọng đã giải đáp được phần nào những thắc mắc của các bạn v dùng thẻ nhớ khi chụp ảnh. Thân,
(Hình ảnh minh hoạ của hãng Sandisk)
Cùng với việc phát triển rầm rộ của kỹ thuật số và các phương pháp lưu trữ khác nhau thì có một vấn đ mới cũng đã nảy sinh, đó chính là vấn đ bảo mật cho các dữ liệu thông tin trên thẻ nhớ. Có lẽ đối với người sử dụng máy ảnh số nghiệp dư thì nó lại không thật quan trọng nhưng đối với các PRO thì nó lại vô cùng cần thiết nhất là khi các hợp đồng được ký dưới sự bảo trợ của pháp luật và bảo hiểm.
Hãng Lexar vừa cho ra một loại thẻ nhớ nhà ngh có khả năng bảo mật cao là "Professional Series Memory Cards" cùng với kỹ thuật mã hoá "Encryption Technology" để đáp ứng như cầu này. Một phần mm đơn giản và dễ sử dụng cho phép bạn cài đặt mức độ bảo mật trên thẻ nhớ và máy ảnh. Như thế các hình ảnh lưu trũ trên thẻ nhớ chỉ có thể đọc được bằng một chiếc máy ảnh có cài đặt bảo mật tương đương hay đọc bằng máy tính với tên người sử dụng và mã khoá. Cho đến thời điểm này thì đây là hệ thông bảo mật duy nhất cho thẻ nhớ trên thế giới. Chiếc dSLR đầu tiên áp dụng công nghệ này là chiếc Nikon D2X.
Kỹ thuật bảo mật mới của Lexar này có kỹ thuật mã hoá 160 bit (một trong những kỹ thuật bảo mật hiệu quả nhất và được ứng dụng rộng rãi hiện hành) cùng với SHA-1 (Secure Hash Algorithm), một chuẩn đã được NIST (National Institute of Standards and Technology) thông qua.
Kỹ thuật số bây giờ thay đổi như chong chóng, chỉ cần vài tháng là các thông số kỹ thuật đã thay đổi. Để bổ sung cho bài viết "Thẻ nhớ: không còn bí ẩn" NTL xin được cung cấp thêm cho các bạn những thông tin mới nhất từ hội chợ trang thiết bị nhiếp ảnh Photokina đang diễn ra tại Cologne - Đức.
SanDisk Extreme ™ III là loại thẻ nhớ nhanh nhất trên TG hiện tại với tốc độ đọc và ghi (hai thao tác này được tiến hành song song nhờ vào kỹ thuật mới ESP-Enhanced Super-Parallel Processing) là 20Mb/s! với thẻ CF và 18 Mb/s với MS. Với mục tiêu nhằm vào các nhiếp ảnh gia PRO và nghiệp dư nhiu kinh nghiệm, gam thẻ nhớ SanDisk Extreme ™ III có dung lượng từ 1Gb đến 4Gb. Môi trường hoạt động của nó từ -25°C đến 85°C. Loại thẻ mới này có bảo hành 10 năm tại châu Âu, Trung Đông và châu Phi, các vùng còn lại thời gian sẽ ngắn hơn. Mỗi chiếc thẻ nhớ này sẽ có kèm theo phần mm RescuePRO ™ giúp bạn khôi phục lại dữ liệu ảnh trong trường hợp bạn đã xoá nhầm ảnh.
Giá cả theo như thông báo là: CF 1Gb 139,99$; CF 4Gb 559,99$; SD 1Gb 139,99$; MS 1Gb 279,99$; MS 2Gb 559,99$.
Loại thẻ SanDisk Ultra II không có thay đổi trong tốc độ đọc và ghi (10Mb/s và 9Mb/s) nhưng nó đạt tới dung lượng 8Gb với thẻ CF, 4Gb với MS và 2Gb với SD. Báo giá:
Ultra II CF 256MB - 2GB $49.99 - $249.99 €44.00 - €245.00 (giá hiện tại)
4GB $479.99 €465.00 (vào tháng 10)
8GB $959.99 €930.00 (vào tháng 11)
Ultra II MS PRO 256MB – 1GB $74.99 - $249.99 €73.00 – €259.00 (giá hiện tại)
2GB – 4GB $479.99 - $959.99 €495.00 - €990.00 (vào tháng 11)
Ultra II SD 256MB – 512MB $64.99 - $89.99 €45.00 - €72.00 (giá hiện tại)
1GB – 2GB $119.99 - $239.99 €119.00 - €239.00 (vào tháng 11)

II-4, SỰ KHÁC BIỆT GIỮA MÁY ẢNH SỐ VÀ MÁY ẢNH CƠ :
Có lẽ một trong những câu hỏi hay được nhiu người đặt ra trước khi quyết định từ giã cách chụp ảnh bằng phim truyn thống để bước vào thế giới của kỹ thuật số là: máy ảnh kỹ thuật số (DSLR) khác máy ảnh Cơ (SLR) ở chỗ nào?
Có lẽ cũng khỏi cần phải nói tới những tiện dụng và những khả năng kỳ diệu của kỹ thuật số đang mang lại cho cuộc sống của chúng ta hàng ngày nữa. Riêng trong lĩnh vực nhiếp ảnh thì bước đột phá này cũng rất ngoạn mục.
Nhìn thoáng qua tấm hình trên đây chắc bạn cũng đã nhận ngay ra sự khác biệt của kỹ thuật số rồi nhỉ. Thay vào vị trí quen thuộc của phim âm bản hay dương bản là một mạch điện tử cảm quang nom rất...đơn giản. Ta cũng không cần phải mở nắp máy phía sau ra để lắp phim nữa mà một mảnh nhựa nhỏ với những mạch điện tử ly ti đã khẽ khàng lách vào bên sườn máy ảnh thay cho những cuộn phim cồng knh làm nhiệm vụ lưu giữ ảnh. Còn một bộ phận cực kỳ quan trọng nữa mà chúng ta không nhìn thấy ở đây, một yếu tố mang tính quyết định cho sự khác biệt giữa các đại gia máy ảnh v chất lượng, đó là phần mm xử lý ảnh - như một bộ xử lý nhỏ của máy tính - nằm ngay trong thân máy ảnh.
Trên đây là hình ảnh của mạch điện tử cảm quang hiện đại nhất do hãng Nikon phát minh và chế tạo. Chính nó đã tạo nên điu kỳ diệu mà không một chiếc máy ảnh nào khác có thể sánh nổi với chiếc Nikon D2H.
Trước khi quay lại với cấu trúc của các loại mạch điện tử cảm quang thì có lẽ chúng mình cũng nên đ cập một chút tới cái mà gần như ai cũng biết, đó là PIXEL. Nó là chữ viết tắt nhằm thể hiện PIcture ELement - yếu tố cấu thành của ảnh kỹ thuật số. Ta hãy gọi nôm na là Điểm ảnh. Mỗi một bức ảnh được tạo nên bởi vô số Điểm ảnh. Mỗi Pixel mang một số thự tự riêng từ 0 tới 255 (giống như phổ màu căn bản của AutoCAD vậy) Tuỳ thuộc vào hơn 16 triệu cách kết hợp khác nhau giữa các pixel của 3 kênh mầu Red - Green - Blue (Đỏ - Xanh lá cây - Xanh da trời) mà sẽ tạo nên vô số màu khác nhau. Nếu nói theo ngôn ngữ của tin học thì mỗi một mầu tương đương với 8 Bit (Byte) và mầu của mỗi một pixel được tạo nên bởi 3 mầu kết hợp RGB. Ta vẫn hay nghe nói tới các tấm ảnh kỹ thuật số có "độ sâu" khác nhau như 16 bit (8 bit x2), 24 bit (8 bit x3), 36 bit (12 bit x3), 48 bit (16 bit x3).
Hiểu rõ kỹ thuật tạo hình ảnh của máy kỹ thuật số có lẽ là cách hay nhất để nhận ra sự khác biệt với máy ảnh cơ.
Như ta đã nói ở trên v cấu tạo, khi ánh sáng đi qua ống kính máy ảnh sẽ gặp một mạch điện tử cảm quang với hệ thống lọc mầu ánh sáng, chuyển thành tín hiệu điện tử. Hiện tượng này tương đương với phản ứng hoá học của phim âm bản hay dương bản. Tiếp theo đó máy ảnh sẽ xử lý những tín hiệu điện tử này để tái tạo lại mầu sắc trung thực của hình ảnh (quá trình này tương đương với việc làm trong phòng rửa ảnh cổ điển) và bạn có thể lưu trữ hình ảnh nguyên gốc hay được nén gọn lại trên các thiết bị lưu trữ (ta vẫn gọi là Memory Card).
Trên thị trường hiện tại tồn tại hai loại mạch điện tử cảm quang là: CCD (Charge-Coupled Devices) và CMOS (Complementary Metal-Oxide Semiconductor). Hãng Nikon mới nghiên cứu thành công một loại thứ 3 kết hợp được những ưu điểm của cả hai loại trên là LBCAST (Lateral Burried Change Accumulator and Sensing Transitor Array). So với CCD và CMOS thì LBCAST dùng tốn ít năng lượng n, ít lỗi hạt ảnh hơn, đồng thời nó góp phần làm tăng tốc độ xử lý ảnh, làm tăng độ nhạy, độ tương phản và tái tạo màu sắc trung thực hơn.
Nhưng cũng chính tại thiết bị đặc biệt này mà ta thấy rõ ràng sự khác biệt giữa phim cổ điển và kỹ thuật số. Loại phim mà chúng ta vẫn hay dùng (thường được gọi là phim 35mm hay 135) có kích thước chiu rộng 36mm x chiu cao 24mm, tỉ lệ hai cạnh thường được quy gọn thành 3:2. Đa phần thì các máy ảnh cơ kỹ thuật số có cùng tỉ lệ này nhưng các máy Digital Compact Camera thường hay có tỉ lệ 4:3 giống như tỉ lệ của màn hình máy tính. Điu này gây ra sự khó chịu nhỏ khi bạn muốn in ảnh kỹ thuật số được chụp với tỉ lệ 4:3 ra giấy vì nếu giữ đúng tỉ lệ tấm ảnh của bạn sẽ là 115mm x 150mm, còn nếu bạn muốn giữ nguyên chiu cao 100mm thì chiu rộng của ảnh sẽ bị ngắn lại.
Với hệ thống máy Digital Compact bạn thường hay gặp các Sensor với kích thước nhỏ như: 1/2.7" hay 1/1.8". Đối với loại máy dSLR thì kích thước của Sensor lớn hơn, ví dụ như Nikon D2H là 23,1mm x 15,5mm, so với phim 24mm x 36mm thì tỉ lệ chênh lệch là 1,5.
Đến đây ta có thể dễ dàng hiểu ngay tại sao trên các máy Digital Compact ống kính zoom thường có các tiệu cự rất nhỏ (ví dụ như máy Minolta Z1 có zoom x10: 5,8mm - 58mm tương đương 38 - 380mm với phim 35mm) Để quy đổi sang tiêu cự tương đương 24x36 ta phải nhân tiêu cự gốc của máy ảnh kỹ thuật số với tỉ lệ chệnh lệnh. Chẳng hạn như ở đây tỉ lệ chênh lệch của môt CCD 1/2.7" là 38/5,8 = 6,55 lần.
Sự khác biệt khá quan trọng này khiến cho các ống kính vẫn được coi là góc rộng của phim 35mm bỗng trở thành....télé! Ta lấy ví dụ của máy Nikon D2H, tỉ lệ chênh lệch là 1,5 thì tiêu cự 28mm x 1,5 = 42mm, nghĩa là gần bằng ống kính tiêu chuẩn (Ống kính mà ta vẫn hay "gọi" là 50mm thực ra chỉ có 45mm mà thôi) Từ đó phát sinh ra nhu cầu dùng các ống kính góc siêu rộng, thậm chí ống kính mắt cá để chụp với thân máy ảnh kỹ thuật số. Chẳng hạn một loại ống kính mới của Nikon: AF-S DX Zoom-Nikkor 17-55mm f/2.8G IF-ED (3.2x) khi dùng với Nikon D2H sẽ trở thành 25,5 - 82,5mm.
Nếu như với các phim phổ thông ta hay nói v nhiệt độ mầu thì tương đương trong kỹ thuật số ta có khái niệm Cân bằng trắng (White Balance). Thường thì trong các máy ảnh kỹ thuật số Cân bằng trắng được chỉnh tự động tuỳ theo ánh sáng môi trường để đạt tới độ trung thực cao nhất của màu sắc nhưng bạn vẫn hoàn toàn có thể lựa chọn các chế độ ánh sáng theo ý của mình như ánh sáng ban ngày, ánh sáng đèn dây tóc vàng, ánh sáng đèn nê-ông....
Khác với phim âm bản hay dương bản, với kỹ thuật số bạn có thể lựa chọn cấu trúc của ảnh để lưu trữ. Có rất nhiu hình thức khác nhau: RAW, TIFF, JPEG...Ở hai loại đầu tiên thì hình ảnh được lưu trữ nguyên thể, không bị nén hoặc được nén với tỉ lệ thấp để đảm bảo tính trung thực và chất lượng hình ảnh (để xử lý sau này trên máy tính), còn ở dạng JPEG thì ảnh có thể sẽ được nén gọn lại tới 40 lần, tiện lợi cho việc gửi qua internet.
Cuối cùng là các loại Memory Card phổ biến và thông dụng hiện hành: CF, MS, SD, MMD, XD,....ưu điểm của chúng là sau khi chụp xong  ảnh và lưu trữ thì bạn có thể ung dung xoá hết ảnh đi và chụp lại từ đầu. Còn ký hiệu tốc độ X12 chẳng hạn thì có nghĩa là 12 x 150 kb/s = 1800 kb/s.
Hy vọng bài viết ngắn gọn trên đây đã giúp bạn hiểu rõ hơn phần nào v sự khác biệt giữa dSLR và SLR.


II-5, Xsync, Hsync, Exposure time, Flash photography

Khi mua một cái camera body, chúng ta thường quan tâm đến nhiu thứ như các tính năng v đo sáng, lấy nét, tốc độ chụp, bracketting, kết cấu... mà ít ai để ý đến thông số X-sync, một thông số quan trọng để đánh giá đẳng cấp của body.
Để đ cập đến thông số này, trước hết phải quay lại với cấu tạo và nguyên lý vận hành của màn trập trong máy (D)SLR.
1. Vị trí & vai trò của màn trập
Phía trước của film frame (hoặc sensor) là vị trí của màn trập. Nhiệm vụ của nó ta đu biết là điu tiết thời gian phơi sáng (exposure time) của bức hình.
Bình thường, màn trập đóng kín để film k0 bị phơi sáng, khi chụp màn trập mở ra để ánh sáng tiếp xúc với bản film.
Màn  trập mở càng lâu, ánh sánh vào càng nhiu và ngược lại .
Nếu chúng ta chỉ hình dung màn trập như 1 (một) cái rèm cửa sổ kéo ra kéo vào, thì sẽ thấy rằng thời gian phơi sáng của các điểm có vị trí khác nhau trong khung cửa số, sẽ khác nhau. Điểm nào được hé ra trước, sẽ bị che lại sau và có thời gian phơi sáng lâu hơn. Điu này k0 thể chấp nhận được, và thực tế cũng k0 phải như vậy.
Màn trập (shutter curtain) trong máy (D)SLR có 2 cái màn !

2. Nguyên lý hoạt động của màn trập (shutter curtain)
Hai màn trập này lần lượt gọi là Front Curtain (hoặc First Curtain) và Rear Curtain (Second Curtain).
Front Curtain (FC): có nhiệm vụ kéo ra để cho film lộ sáng
Rear Curtain (RC): có nhiệm vụ đóng lại để điu tiết thời gian phơi sáng của film.
Cả hai màn trập này đu cùng chạy với 1 tốc độ như nhau
Giả sử đây là cảnh chúng ta muốn chụp, và là cái chúng ta nhìn thấy qua viewfinder (a)
(a) Lúc này film chưa h bị phơi sáng, ta chưa bấm chụp, FC vẫn đang che kín film frame (b)

(b) Khi chúng ta bấm chụp, gương sẽ lật lên, sau đó FC sẽ kéo từ dưới lên trên, film lộ sáng từ dưới lên trên (c)
(c) Sau khi FC kéo lên hết, film hoàn toàn lộ sáng, lúc này ảnh hoàn toàn được in lên bản film (d)
(d) Tiếp theo, RC sẽ kéo lên để đóng lại, film bị che lại từ dưới lên trên (e)
(e) Sau khi RC đóng lại toàn bộ, pose ảnh đã chụp xong (f)
(f) gương hạ xuống, FC và RC trở lại vị trí ban đầu (b)
Theo nguyên lý trên, ta thấy rằng vì cả hai màn trập đu chạy với cùng một tốc độ, theo cùng một hướng cho nên, mọi điểm trên bản film đu có thời gian phơi sáng như nhau.
Thời gian phơi sáng (exposure time) chính là khoảng thời gian giữa thời điểm FC xuất phát (mở ra) và thời điểm RC xuất phát (đóng lại)
Như vậy, cái mà chúng ta thường gọi là "tốc độ chụp", chúng ta thường chọn là 30sec, 1sec, 1/100sec hay 1/8000sec, chính là "thời gian phơi sáng", là "exposure time". Nó là khoảng trễ giữa thời điểm xuất phát của FC & RC, còn cả hai cái màn trập này luôn luôn chạy với cùng một tốc độ cố định, chứ k0 phải cái màn trập có thể lao ầm ầm với tốc độ 1/8000 sec. Chẳng hệ thống cơ khí nào đạt được tốc độ kinh khủng đó cả. Tốc độ đó thấp hơn nhiu. Vậy nó bằng bao nhiêu ?
Giả sử bằng 1/200 sec đi, vậy thì điu gì sẽ xảy ra ?
Nếu chúng ta chụp ảnh ở tốc độ chậm hơn 1/200sec, ví dụ 1/60sec, hiện tượng sẽ diễn ra theo trình tự từ (a) đến (f) như trên. Tức là:
- FC mở hết ra trong khoảng thời gian 1/200sec (0 đến 1/200),
- 1/60 sec sau, tức là vào thời điểm (1/60), RC bắt đầu xuất phát để đóng lại,
- RC cũng kết thúc công việc của mình trong vòng 1/200sec, tức là vào thời điểm (1/200 + 1/60) sec.
- Như vậy, bất kỳ một điểm nào trên bản film đu chỉ được phơi sáng trong vòng 1/60 sec mà thôi và trong khoảng thời gian từ thời điểm 1/200sec (khi FC đmở hết) đến 1/60sec (RC bắt đầu chạy), toàn bộ 100% diện tích bản film được phơi sáng trong lúc chờ đợi nữa .
Nếu tốc độ chụp bây giờ nhanh hơn 1/200sec thì sao? 1/500sec chẳng hạn. Nguyên lý vẫn k0 có gì thay đổi, tuy nhiên, hiện tượng có khác đôi chút.
- FC cũng bắt đầu chạy từ thời điểm 0 và kết thúc hành trình ở thời điểm 1/200,
- Tại thời điểm 1/500, RC xuất phát, lúc này FC mới chỉ đi được khoảng 1/3 quãng đường,
- RC cũng kết thúc nhiệm vụ tại thời điểm (1/500 + 1/200) sec
- Nguyên lý k0 h thay đổi, nên thời gian phơi sáng của mọi điểm trên bản film cũng vẫn được đảm bảo là 1/500sec.
- Có điu, lúc này tiết diện bản film k0 h được phơi sáng 100% như trong trường hợp trên nữa mà chỉ được đón ánh sáng qua một khe hẹp bởi FC chưa mở hết thì RC đã phải đóng lại rồi.
B rộng của khe quét kia lớn hay nhỏ tùy thuộc tốc độ chụp nhanh hay chậm (thời gian phơi sáng nhiu hay ít), bởi vì do RC xuất phát sớm hay muộn.
Như vậy, chúng ta thấy một điu rằng, cho dù ta chọn tốc độ chụp là bao nhiêu đi nữa, bulb, 30sec, 1/100sec hay 1/8000sec thì màn chập vẫn luôn chỉ chạy với 1 tốc độ duy nhất. Và điu quan trọng nhất để thực hiện xong một pose ảnh bạn phải cần ít nhất 1 khoảng thời gian tương ứng bằng : thời gian phơi sáng + tốc độ màn chập, bởi vì nếu tính từ lúc FC xuất phát, cần phải đợi 1 khoảng thời gian bằng thời gian phơi sáng để RC xuất phát cộng với tốc độ màn chập (khoảng thời gian để màn chập RC hoàn thành sứ mệnh) thì sự phơi sáng mới được coi là kết thúc.
Một ví dụ hài hước, nếu cái camera của bạn có tốc độ màn chập là 1 (một) sec, làm thế nào bạn có thể bắt được những khoảnh khắc cỡ phần trăm giây trở lên.
Như vậy, tốc độ màn chập là rất quan trọng đối với 1 camera body. Người ta gọi nó là X-sync, hay còn mang một tên nữa là "tốc độ ăn đèn cao nhất".
Cái tên của nó được gắn lin với đèn flash, bởi khi dùng đèn flash, ta mới thấy sự lợi hại của một body co X-sync 1/250sec so với X-sync 1/125sec.

3. High speed sync (H-sync)
Như vậy, một body có tốc độ chụp cao 1/8000sec hay 1/16000sec, tất nhiên cũng hấp dẫn. Nhưng rất ít khi chúng ta sử dụng đến những tốc độ đó. Tuy nhiên, nếu máy có X-sync cao hơn lại là một lợi thế lớn. Đó là khi chúng ta sử dụng flash trong những tình huống fill in
3.1 Standard Flash Synchronization
Flash phát sáng dưới dạng xung (pulse). Mỗi lần phát sáng diễn ra trong một khoảng thời gian cực ngắn, cỡ phần nghìn sec hoặc nhanh hơn, tùy thuộc công suất phát. Một lần phát sáng là 1 xung duy nhất (single flash burst), sau đó, ta thường phải đợi flash recharged cho lần chụp tiếp theo.
Mục đích chụp flash là để chiếu sáng chủ thể, và phải đảm bảo chiếu sáng trên toàn bộ khuôn hình. Do đó, nếu chỉ phát 1 xung duy nhất, thì phải đợi khi 100% tiết diện bản film được phơi sáng thì camera mới ra lệnh kích hoạt flash.

Điu này chỉ đạt được khi tốc độ chụp (thời gian phơi sáng) chậm hơn tốc độ màn chập X-sync như đã nói ở trên.
(Phần minh họa này, Front Curtain được gọi là First Curtain - FC, Rear Curtain gọi là Second Curtain- SC, và có màu sắc trái ngược với phần trên. Nhưng bản chất vẫn như nhau, hy vọng k0 làm các bạn nhầm lẫn!)
Liên quan đến trường hợp này, có hai cách phát sáng của flash mà ta vẫn thường nghe:
First curtain sync: Flash phát sáng ngay sau khi FC mở hết (thường là chế độ default trong camera)
Second curtain sync: Flash phát sáng ngay trước khi SC chuẩn bị xuất phát để đóng lại. (Công dụng và hiệu ứng của hai loại này sẽ nói sau)
3.2 Hi-speed Flash Synchronization (H-sync)
Thuật ngữ này thường được gọi dưới tên khác là focal plane sync (FP sync) để chỉ việc dùng flash khi tốc độ chụp cao hơn tốc độ màn chập X-sync. Trường hợp này thường gặp khi ta dùng flash làm fill in.
Với tốc độ chụp cao hơn X-sync, bản film k0 thể phơi sáng 100% diện tích của mình mà chỉ nhận ánh sáng qua khe quét tạo bởi hai màn trập FC & SC. Như vậy, flash muốn rọi sáng toàn bộ bản film thì k0 thể phát sáng 1 lần (1 xung duy nhất) được, mà nó phải "chạy theo" khe quét kia và phát liên tục để phủ sáng dần dần những tiết diện bản film được lộ sáng bởi khe quét. Tức là flash phát nhiu xung liên tục. Việc "chạy theo" khe quét bằng nhiu xung phát sáng chính là sự đồng bộ giữa flash với tốc độ chụp cao. Đó là xuất xứ của thuật ngữ High speed sync.

Nếu chỉ phát 1 xung duy nhất như trường hợp trên, flash có thể đạt công suất lớn nhất của nó và phát trong 1 khoảng thời gian cực ngắn.
Nay phải phát làm nhiu xung, thời gian phát kéo dài, cường độ flash sẽ giảm đi đáng kể. GN của flash giảm.
Như vậy, nếu tốc độ chụp chậm, khe quét lớn, số lần phát xung sẽ ít, cường độ flash giảm ít. Tốc độ chụp cao, khe quét hẹp, số lần phát xung nhiu hơn, cường độ flash giảm nhiu hơn. Do đó, khi chụp fill in thì flash có GN càng lớn càng tốt.
Tới đây, chúng ta có thể thấy một body có tốc độ X-sync cao có lợi như thế nào. X-sync càng cao thì flash càng có cơ hội phát hết cường độ ở tốc độ chụp cao. Người chụp càng có nhiu lựa chọn và linh hoạt hơn trong việc chụp fill flash để cân bằng ánh sáng giữa chủ thể và ánh sáng xung quanh (ambiance).
Ví dụ:
Với cùng một đối tượng chụp, đo sáng ta có thông số:
Body 1 (X-sync = 1/125sec): ISO 100, f/4, 1/125sec.
Body 2 (X-sync = 1/250sec): ISO 200, f/4, 1/250sec, hoặc ISO 100, f/2.8, 1/250
Những cặp thông số trên đu cho ra 2 bức ảnh có ánh sáng ambiance như nhau. Việc fill flash cũng nằm trong khả năng của cả hai, nhưng rõ ràng ảnh cho bởi body 2 sẽ có DOF nông hơn (f/2 vs f/4) và khả năng freeze hành động của chủ thể tốt hơn (1/250sec vs 1/125sec).
Body 1 muốn có tốc độ 1/250sec nhằm mục đích khống chế DOF mỏng hay action shot mà vẫn phải dùng fill flash sẽ gặp bất lợi hơn do khi đó Flash phải hoạt động ở chế độ H-sync, cường độ của nó sẽ bị yếu đi do phải phát 2 xung liên tiếp.

Xuộc: Ăn trộm tại:
www.google.com (key word: x-sync, high shutter speed, high sync, shutter curtain...)
4. First Curtain Sync & Second Curtain Sync
Bài này trước post bên TTVNOL rồi, nay move v đây cho nó trọn bộ. Tớ lười chụp nên chỉ dùng hình vẽ để minh họa thôi, các bác thông cảm.
Sự khác nhau giữa First curtain Sync và Second curtain Sync thể hiện rõ nhất khi ta chụp hình một vật di chuyển vào buổi tối với tốc độ thật chậm.
Ví dụ chụp một cái xe hơi chạy trong màn đêm, tốc độ chậm.
- Nếu k0 dùng flash thì chỉ thấy một vệt đèn kéo dài trong thời gian exposure.

- Nếu dùng flash bình thường tức 1st curtain (chế độ mặc định) thì khi màn trập (FC) vừa mở hoàn toàn, flash sẽ nổ và rọi sáng cái xe hơi ở vị trí đầu (A). Sau đó, flash tắt, camera tiếp tục lộ sáng, xe đi tới điểm B thì phơi sáng xong. Lúc này k0 thấy xe hơi được vì nó di chuyển, chỉ thấy vệt đèn thôi.

Trong trường hợp này có cảm giác như xe đi giật lùi.
- Còn khi set ở 2nd curtain thì khi màn trập thứ hai (SC) chuẩn bị đóng thì flash mới nổ. Lúc này vệt đèn đã in lên film (sensor) giống trường hợp No flash. Nhưng khi xe đến vị trí cuối (B) thì flash nổ và soi sáng xe hơi. Vệt đèn sẽ nằm đè lên xe, nom có vẻ như xe đang lướt đi trong đêm vậy.

Còn nếu chỉ để thấy hiện tượng thì rất đơn giản. Chỉ cần set tốc độ chụp khoảng 2 - 3 sec thì cũng đủ để thấy thời điểm phát sáng của flash khác nhau.
- 1st curtain: Ngay sau khi bấm chụp là thấy flash nổ ngay, 2 - 3 sec sau mới nghe tiếng màn trập đóng lại
- 2nd curtain: Bấm chụp nhưng k0 thấy flash có động tĩnh gì, 2- 3 sec sau thì flash nổ gần như đồng thời với tiếng đóng màn trập kết thúc pose ảnh.
5. Cấu tạo màn trập
Mấy phần trên chủ yếu giới thiệu v nguyên lý hoạt động của màn trập lúc bình thường và khi kết hợp với flash. V cấu tạo cơ khí của nó, chắc các bác cũng ít khi để ý. Với máy SLR thì còn dễ, chỉ cần mở cái back cover mỗi khi tháo lắp film là thấy, còn với DSLR thì coi như chẳng bao giờ, vì hơi mạo hiểm với sensor. Em nhặt mấy cái hình trên net, nếu bác nào quan tâm.
Cấu tạo và phương thức vận hành của màn trập chủ yếu dựa vào chiu di chuyển của chúng, có 2 loại chính.
5.1 Màn trập quét theo chiu ngang - Horizontal shutter curtain
Đây là kiểu mà các máy ảnh đời cũ hay dùng, hai màn trập di chuyển theo chiu ngang.
Màn trập quét ngang của Nikon F3, và dưới đây là nguyên lý hoạt động của nó
Hai màn trập là hai lá kim loại mỏng, độ đàn hồi cao, chạy đi chạy lại trong những thanh ray để làm nhiệm vụ phơi sáng.

Ưu điểm: độ bn cực cao, cấu trúc đơn giản, dễ chế tạo.
Nhược điểm: Tốc độ màn trập X-sync rất thấp (khoảng 1/60 đến 1/90 sec) vì mấy lý do:
- Do di chuyển theo chiu ngang nên quãng đường vận hành của màn trập dài, 
- Việc cuốn lá kim loại dài đòi hỏi thời gian và công sức khá nhiu.
Một nhược điểm lớn nữa là do màn trập dịch chuyển theo chiu ngang, trong khi gương lại lật theo chiu dọc, do đó, khi bấm chụp, phải đợi cho gương lật lên hoàn toàn thì First curtain mới bắt đầu chạy được để đảm bảo chiu dọc bản film được lộ sáng hoàn toàn. Điu này làm cho shutter lag cao.
Để khắc phục những nhược điểm trên, các nhà chế tạo hướng vào loại màn trập quét theo chiu dọc.
5.2 Màn trập quét theo chiu dọc - Vertical shutter curtain
Phần lớn các máy ảnh hiện đại ngày nay đu dùng loại màn trập quét dọc này.

Màn trập quét dọc của Nikon F5
Việc di chuyển theo chiu dọc đã giúp màn trập rút ngắn rất nhiu thời gian vận hành nhờ quãng đường di chuyển ngắn hơn.
Ngoài ra, để tăng tốc độ X-sync, màn trập 1 lá kim loại to và nặng n được thay thế bằng loại có kết cấu từ nhiu lá (blade). Cụ thể là gồm 4 lá, 2 lá bằng hợp kim nhôm, 2 lá bằng carbon fiber.
Những lá kim loại này rất mỏng, nhẹ nên thời gian và tiêu hao năng lượng khi vận hành khá nhỏ. Từng lá sẽ được rút dần từ dưới lên trên. Phương thức này cũng dễ dàng đồng bộ với chuyển động của gương lật, làm giảm đáng kể shutter lag. Rất hiểu quả trong việc chụp ảnh ở tốc độ cao, so với loại màn trập quét ngang.
Nhược điểm chính của loại màn trập này là cấu trúc cơ khí điu khiển và vận hành các lá kim loại phức tạp hơn. Các lá kim loại mỏng, hẹp mà kích thước lại dài (theo chiu dài bản film) nên khi chuyển động rất dễ rung, ảnh hưởng đến độ nét của ảnh. Đây là một lý do rất "tế nhị" khi có ý kiến cho rằng body cũng ảnh hưởng đến chất lượng hình ảnh! Tuy nhiên, lĩnh vực này vẫn tiếp tục được các nhà chế tạo tìm tòi, nghiên cứu để các lá kim loại vận hành ngày càng hoàn thiện hơn, nâng cao được X-sync, tuổi thọ và tính ổn định của màn trập.
Cũng vì thế mà các máy (D)SLR ngày nay mới có thêm một tiêu chí v "tuổi thọ" là số kiểu chụp, tương đương số lần hoạt động của màn trập.

Màn trập quét dọc của máy Nikon FE2, với tốc độ X-sync 1/200sec và tốc độ chụp cao nhất 1/4000sec. Tốc độ này là điu đáng nể vào những năm của thập kỷ 80.

Máy Nikon FM2 được thay thế bằng loại màn trập làm từ Titanium. Kích thước bộ phận cơ khí cải thiện đáng kể, nhỏ gọn hơn rất nhiu.
Nim tự hào của Nikon đến nỗi họ đã đóng triện lên cái ổ trập này. Theo như quảng cáo thì loại màn trập titanium này cho phép tuổi thọ camera đạt tới ít nhất là 100.000 shots !
6. Màn trập điện tử
Những thuật ngữ X-sync, H-sync chỉ có ý nghĩa với các máy (D)SLR sử dụng màn trập cơ khí để điu tiết thời gian phơi sáng. Còn đối với các máy digital compact sử dụng màn trập điện tử thì k0 còn khái niệm X-sync nữa, đồng thời, mọi tốc độ chụp đu coi như H-sync.
Lý do X-sync k0 còn nữa bởi vì màn trập cơ khí cũng k0 tồn tại trong những máy DC P&S nữa. Ở những máy này, ánh sáng đi thẳng qua lens, k0 có gương, k0 có màn trập, ánh sáng tiếp xúc trực tiếp với sensor. Tuy nhiên, khi chưa tiến hành thao tác "chụp ảnh", sensor sẽ ở trạng thái OFF, tức là k0 được tiếp điện, k0 có phản ứng gì với ánh sáng cả. Chỉ khi bấm chụp, sự phơi sáng được tiến hành khi sensor được tiếp điện và chuyển sang trạng thái ON. Các pixel sẽ tiếp nhận thông tin ánh sáng để thực hiện quá trình số hóa. Thời gian ở trạng thái ON của sensor chính là tốc độ chụp, là thời gian phơi sáng được máy / người chụp thiết lập. Kết thúc khoảng thời gian này, sensor lại trở lại trạng thái OFF. Thực tế là chẳng có cái màn (curtain) nào cả, thời gian phơi sáng được điu tiết bởi tín hiệu điện tử trong việc cung cấp (ON) và ngắt điện (OFF) cho sensor. Nên gọi bóng gió là "màn trập điện tử".
Như vậy, trong bất cứ hoàn cảnh nào, sensor cũng được phơi sáng 100% diện tích của nó. Do đó, việc fill flash có thể thực hiện với bất cứ tốc độ chụp nào, trong điu kiện công suất flash cho phép. Có điu, GN của những build in flash trên các máy P&S đu rất nhỏ (do giới hạn kích thước flash và dung lượng pin dùng chung với camera) nên ưu thế H-sync này coi như k0 đáng kể.
7. Nikon D70 với X-sync 1/500 sec!
Có thể nói đây là chiếc SLR cho tốc độ X-sync cao nhất hiện nay nhờ kết hợp ưu thế màn trập điện tử. Những máy đầu bảng như Nikon F5 hay Canon 1Ds Mark II cũng chỉ dừng lại ở tốc độ X-sync 1/250 sec.
Thực tế thì tốc độ màn trập cơ khí của D70 cũng chỉ là 1/200 hoặc 1/250 sec (chưa kiểm chứng nhưng k0 thể vượt qua giá trị này). Và khi chụp fill flash ở tốc độ trên X-sync, up to 1/500sec, cơ chế diễn ra như sau:
1. Bấm chụp, gương lật lên,
2. First curtain kéo lên với tốc độ 1/250sec (e.g), 2bis. Lúc này sensor ở trạng thái OFF,
3. Khi first curtain mở hết, 100% sensor được lộ sáng, bắt đầu tiếp điện cho sensor nhận ánh sáng, trạng thái ON, đồng thời kích hoạt flash, 3bis. Thời gian phát của xung flash là rất ngắn, cỡ phần nghìn sec,
4. Sau khoảng thời gian 1/500sec, ngắt điện, đưa sensor trở v trạng thái OFF,
5. Second curtain kéo lên,
6. Gương hạ xuống và mọi thứ trở lại vị trí ban đầu.
Note:
- Việc second curtain kéo lên (step 5) chỉ là thủ tục theo đúng trình tự cơ khí, chứ k0 còn tác dụng điu tiết thời gian phơi sáng nữa vì trước đó sensor đã bị ngắt điện rồi.
- Thời gian phơi sáng vẫn đảm bảo đúng 1/500sec.
- Thời gian để hoàn thành thủ tục bằng 1/250 (FC) + 1/500 (exposure time) + 1/250 (SC). Không kể thời gian làm việc của gương.
+ Như vậy, thời gian hoàn thành thủ tục có lâu hơn một chút (1/250sec) so với cơ chế khí bình thường và nó tương đương với thời gian chụp một pose ảnh có thời gian phới sáng thực sự là (1/250 + 1/500) sec, chậm hơn tốc độ X-sync cơ khí.
+ Phải đợi một khoảng thời gian trễ (lag time) đúng bằng X-sync cơ khí (1/250sec) để FC mở hoàn toàn, rồi sau đó mới tiến hành phơi sáng (cấp điện cho sensor) được. So với trường hợp bình thường, sensor có thể bắt đầu phơi sáng ngay khi FC bắt đầu xuất phát.
- Tuy nhiên, con số 1/250sec kia sẽ chỉ giành cho những ai cực kỳ khó tính nếu thấy cần phải phàn nàn v lag time. Đổi lại, ta được hẳn một pose ảnh fill flash với toàn bộ công suất (GN) của đèn, nếu cần. Trong thực tế, khi tốc độ H-sync trên 1/500sec thì D70 sẽ lại quay v với phương pháp đồng bộ truyn thống, tức là vẫn phụ thuộc vào giới hạn của X-sync cơ khí. Cho nên, lợi thế v X-sync 1/500sec này chỉ phát huy được khi tốc độ chụp nằm trong khoảng 1/250sec đến 1/500sec mà thôi.
Tới đây thì có một câu hỏi đặt ra:
Tốc độ phát xung của flash là rất cao, cỡ phần nghìn sec, vậy tại sao k0 tận dụng tối đa lợi thế của màn trập điện tử để nâng X-sync điện tử lên cao hơn, cỡ 1/750 sec chẳng hạn ?
Tớ cũng chưa biết trả lời thế nào, chỉ đoán mò vài lý do thế này:
- Bình thường, khi chưa rơi vào trạng thái standby, thì sensor của DSLR luôn trong trạng thái ON, chẳng khác gì bản film luôn thường trực chờ được phơi sáng. Muốn chuyển sang cơ chế màn chập điện tử thì nó lại phải quay v trạng thái OFF trước. Việc thay đổi liên tục giữa hai cơ chế (trạng thái) này có thể ảnh hưởng đến độ tin cậy của sensor khi vận hành chăng ?
- Việc tăng X-sync điện tử, đồng nghĩa với giảm thời gian ở trạng thái ON tức thời của sensor. Nếu thời gian đó quá ngắn, có thể k0 đủ để nạp đầy năng lượng cho toàn b mặt rộng lớn của sensor DSLR giúp nó làm việc có hiệu quả nhất. So với máy P&S, diện tích của sensor
DSLR lớn hơn rất nhiu bởi kích thước mỗi pixel rất to nên đòi hỏi năng lượng nhiu hơn. Đây cũng là nguyên nhân chính làm giá thành của DSLR cao.
... và cũng còn có thể có nhiu nguyên nhân quan trọng nữa. Bởi thực tế cho thấy các máy Pro k0 mặn mà lắm với X-sync điện tử mà vẫn hoàn toàn trung thành với X-sync cơ khí truyn thống. Phải chăng, 1/250sec cũng đã là quá đủ ?!

II-6, Kính lọc
Giống như mắt người máy ảnh cũng cần đeo kính, chỉ có khác là chúng ta cần đeo kính nhiu khi chỉ để làm đẹp . Còn máy ảnh "kính" cho nó lại không phải làm đẹp cho máy ảnh mà cho những gì nó nhìn trở nên đẹp đẽ, gợi cảm và quyến rũ hơn. Mà làm đẹp thì không thể và không bao giờ là đơn giản cả , do đó mà hiểu và nói v "kính cho máy ảnh" là một kho tàng mà cần có sự góp sức của nhiu người. Tôi xin làm bài mào đầu.
1. Đeo kính trắng cho máy ảnh:
Đây là từ mà tôi để ám chỉ các kính lọc mang tính chất "bảo vệ" cho ống kính khỏi bị trầy sước.
Đó là các kính lọc UV, Haze vSkylight, ngoài chức năng bảo vệ thì tác dụng dụng chính cua chúng là khử hết các tia tử ngoại (UV: untra-vilet). Cái loại tia này thường xuất hiện ở các vùng núi cao, nó làm ảnh của ta bị chuyển sang màu hơi xanh xao, bệnh tật .
Còn "kính trắng' Skylight ngoài tác dụng bảo vệ và chống tia tử ngoại trên nó còn có màu hơi phớt hồng, hấp thụ thêm một ít ánh sáng xanh trong dãi quang phổ.
u ý:
- Kính lọc nó cũng làm cho ánh sáng đi vào film phải qua nhiu "cửa" hơn nên khả năng chất lương hình ảnh bị giảm và ánh sáng bị tán xạ càng nhiu nên dễ bị loé.
- Giá bán của các kính trắng này ở Việt nam thông thường từ khoảng 60.000VNĐ đến khoảng 300.000VNĐ tuỳ loại.
- Tốt nhất là mua loại xịn không nó phí cái ống kính lắm .

2. Đeo kính "Bô la":
Nếu ít khi lên vùng cao hoặc "ngại" sử dụng kính lọc thì sử dụng duy nhất kính lọc phân cực (Polarizer - PL) là sự lựa chọn của tôi khi luôn gắn nó trên ống kính. Kính lọc này có hai vòng, một vòng gắn vào ống kính, còn một vòng để chúng ta loay xoay Chúng ta hiểu đơn giản đại khái là thê này, ánh sáng nếu gặp b mặt không kim loại và phản xạ thì ánh sáng phản xạ là ánh sáng đã phân cực. Kính Pola sẽ "xử lý" nhưng thể loại ánh sáng đó cho nó "đẹp" hơn. Vậy thôi Ứng dụng chính khi bạn chụp cảnh có phản chiếu qua mặt nước, chẳng hạn bóng đối xứng... Ánh sáng khi "đập" vào nước và "văng" ra chô khác nó làm cảnh không được tươi thắm như "thủa đầu". Chính vì vạy mà hải có Pola để tăng cường nó, kể cả tương phản...
Ứng dụng thứ hai khi chúng ta muốn loain bỏ những ánh phản chiếu ở các mặt thuỷ tinh, gương kính. Ta dùng Pola và xoay đến khi đến khi không thấy bóng phản chiếu trên b mặt kính nữa...

Ứng dụng thứ ba mang tính mẹo nhỏ là khi bạn cần chụp tốc độ thấp, ví dụ như lia máy. Bạn đã chọn ISO thấp nhất có thể vậy mà ảnh vẫn thừa sáng do trời quá nắng, thì việc dùng kính Pola và vặn cho nó tối lại cũng là một cách nhé

Cuối cùng nếu mà bầu trời có nhiu bụi và các phân tử nước tung tăng nhảy múa trong không khí dùng pola sẽ làm xậm trời hơn do loại bỏ một phần tia sáng phân cực. Nhưng cũng rất dở hơi là lúc chúng ta cần chụp ảnh nghệ thuật khi ngược sáng hay xuôi sáng thì pola không còn tác dụng đâu nhé
u ý: - Pola mất tác dụng khi b mặt phản chiếu là kim loại
------------------------------------------------
III, KỸ THUẬT CHỤP ẢNH

III-1, Kỹ thuật căn bản
1. Thao tác cầm máy ảnh khi chụp
Đây là điu mà không ít người mới làm quen với máy ảnh dCam & BCam thường hay không để ý hoặc không coi trọng nó đúng mức dẫn đến kết quả ảnh không đẹp. Muốn chụp được ảnh đẹp thì việc đầu tiên cần học cách cầm máy chắc chắn và thoải mái. Thói quen chụp ảnh bằng điện thoại di động bằng một tay là nguyên nhân của không ít lỗi rung máy khi chụp ảnh bằng dCam & BCam. Dưới đây là một vài tư thế cầm máy ảnh nên tránh:
Với các máy ảnh có dây đeo tay thì động tác đầu tiên bạn nên làm là lồng nó thật chắc vào cổ tay, không ít người hối hận muộn màng vì làm rơi máy ảnh đấy nhé.
Nguyên tắc chung của việc cẩm máy ảnh là tạo được ít nhất 2 điểm tựa trên cả hai bàn tay, nếu tư thế chụp ảnh cho phép thì bạn nên tỳ một khuỷu tay vào người, làm như thế sẽ tạo nên tư thế chắc chắn và cầm máy được lâu hơn.
thế cầm máy ngang kiểu này rất chắc chắn và bạn sẽ tránh được lỗi che tay vào ống kính hay đèn flash.

Với tư thế chụp máy dọc, bàn tay trái tạo một điểm tựa kẹp chặt máy ảnh, bàn tay phải hỗ trợ thêm đồng thời thao tác bấm máy.
Dĩ nhiên là còn có rất nhiu cách cầm máy rất hiệu quả khác nhưng trên đây NTL chỉ muốn đưa ra những ví dụ cụ thể để dễ hình dung hơn. Với kiểu máy BCam thì cá nhân NTL ưa thích cách đặt gọn máy trên lòng bàn tay trái, các ngón tay khẽ giữ lấy phần thân máy và ống kính nhô ra phía trước (lưu ý tránh che các "mắt điện tử" của máy), tay phải thao tác chụp.
Hình ảnh minh họa trích dẫn từ Manual của Nikon 8800

2. Thao tác chụp ảnh
Với sự phát triển của kỹ thuật số và phổ cập máy ảnh số thì việc hiểu biết cấu tạo và cách sử dụng chúng không hẳn là quá xa lạ nữa.
Nhưng vẫn có không ít người coi nhẹ các thao tác căn bản này dẫn tới kết quả ảnh xấu mà không hiểu tại sao? Hình ảnh trích dẫn  Manual của Nikon 8800 dưới đây chỉ dẫn rất cụ thể các bước căn bản khi bấm máy:
Ta có thể chia thao tác này ra làm 2 giai đoạn:
1. Bạn bấm nhẹ nút chụp ảnh xuống khoảng 1/2 quãng đường đi của nó để máy ảnh hoạt động chỉnh nét và đo sáng. Sau khi các thao tác kỹ thuật đã hoàn thành, trong một khoảng thời gian rất ngắn, thì bạn có thể nghe thấy một tiếng "bíp" nhỏ và nhìn thấy đèn báo hiệu "AF" mầu xanh hiện sáng. Tuỳ theo cấu tạo của máy mà bạn có thể nhìn thấy 2 chiếc đèn hiệu báo nét và báo flash nằm phía sau lưng máy.
2. Sau khi đã chắc chắn là máy ảnh đã thao tác xong, bạn chỉ việc nhấn nốt 1/2 quãng đường còn lại để chụp ảnh.
Nếu bạn thấy đèn AF nhấp nháy hoặc là có mầu vàng thì điu này chứng tỏ rằng máy chưa thực hiện được các thao tác kỹ thuật cần
thiết. Lý do có thể là bạn chưa canh được nét đúng, có thể là khoảng cách chụp ảnh quá gần, có thể là tốc độ chụp ảnh quá chậm...Bạn cần đọc Manual của máy để hiểu rõ từng trường hợp. NTL muốn nhấn mạnh lại ở đây rằng việc đọc sách hướng dẫn trước khi chụp ảnh là rất quan trọng. Đừng bao giờ để lỡ mất những khoảnh khắc quan trọng chỉ vì chưa nắm vững cách dùng máy ảnh.

3. Thao tác chỉnh nét
Với những ai mới khởi đầu tập chụp ảnh thì việc biết lấy nét chính xác là rất quan trọng. Một tấm hình lưu niệm thì không thể sai nét.
Thao tác này được thực hiện rất hiệu quả bởi chế độ lấy nét tự động AF của các máy dCam & BCam nhưng nó cũng cần được hỗ trợ thêm bởi thao tác của người sử dụng. Đa phần các máy ảnh kỹ thuật số hiện tại đu có chức năng tự động 100% chọn điểm canh nét "thông minh" như các nhà chế tạo vẫn quảng cáo nhưng thật sự chức năng này rất nguy hiểm trong trường hợp khuôn hình rộng, có nhiu chủ thể ở các khoảng cách khác nhau...Bạn sẽ không kiểm soát được chính xác điểm canh nét theo ý muốn. NTL khuyên bạn nên chọn chế độ chỉnh nét AF theo 1 điểm duy nhất tại trung tâm khuôn hình và thao tác như hướng dẫn sau đây:

Hình minh họa trích từ Manual của Nikon 7900
Bạn để vùng lấy nét vào chủ thể chính của ảnh, bấm nhẹ nút chụp ảnh xuống để thao tác AF. Sau khi thấy tín hiệu đèn mầu xanh xuất hiện (hay thấy xuất hiện một chấm tròn nhỏ trong khuôn hình, LCD...) bạn nhấn nốt quãng đường còn lại để chụp ảnh.
Hình minh họa trích từ Manual của Nikon 7900
Máy ảnh cũng là một thiết bị điện tử thông thường và nó cần có thời gian để thực hiện các thao tác kỹ thuật cần thiết, khi chụp ảnh chúng ta nhất thiết phải tôn trọng nguyên tắc này. Việc chụp ảnh bằng cánh bấm một lèo cho xong thường ra kết quả ảnh xấu. Thêm một điu quan trọng nữa mà bạn cần lưu ý là sau khi đã lấy nét xong, chừng nào bạn còn giữ nút chụp ảnh ở vị trí 1/2 quãng đường đi của nó thì điểm canh nét không thay đổi. Như thế bạn hoàn toàn có thể chủ động chọn điểm lấy nét sau đó khuôn lại hình như ý muốn và chụp ảnh.

Hình minh họa trích từ Manual của Nikon D70
Kỹ thuật AF dựa trên thao tác của "sensor" nên có những hạn chế của nó mà ta cần biết để tránh gặp phải những lỗi căn bản khi lấy nét.
Tài liệu trích dẫn từ Manual của máy Nikon D70 dưới đây đã giải thích rất cụ thể:

Trên đây là tổng hợp những thao tác căn bản nhất mà bạn có thể đọc được trong sách hướng dẫn sử dụng máy ảnh của mình. NTL muốn nhấn mạnh thêm rằng với các máy dCam & BCam thì khả năng cho độ nét sâu rất lớn nên nói chung bạn sẽ ít gặp phải trở ngại khi chụp ảnh phong cảnh, có khuôn hình rộng. Thế nhưng khi bạn chọn "mode" chụp ảnh chân dung, macro hay chụp với tele thì việc chọn đúng điểm canh nét là rất quan trọng vì "sai một ly sẽ đi một dặm". Thông thường với ảnh lưu niệm bạn nên đặt vùng lấy nét trên khuôn mặt của chủ thể là sẽ thành công.


III-2, Nguyên tắc chụp ảnh:
Theo một gợi ý rất thú vị của bạn Nguyễn Việt, NTL thử đưa ra một nguyên tắc chung bao gồm nhiu bước căn bản để đảm bảo việc thành công trong thao tác chụp ảnh thông thường.
1. Kiểm tra hiện trạng máy móc
Việc làm này rất đơn giản nhưng hầu như tất cả đu bỏ qua cho đến khi có sự cố v chất lượng hình ảnh hay trục trặc kỹ thuật. Vì thế trước mỗi lần đi chụp ảnh bạn hãy kiểm tra lại các chi tiết sau:
- Ống kính máy ảnh: b mặt ngoài cùng của ống kính phải sạch, không có bụi, vết tay, vết nước...Bạn nên thử zoom vài lần xem có vấn đ gì không?
- Pin: bạn đã sạc pin chưa? hoặc bạn đã có thêm pin dự trữ...
- Thẻ nhớ: bạn cần biết chắc chắn chiếc thẻ nhớ mang theo hoạt động tốt với thân máy ảnh của mình. Tổng dung lượng của các thẻ nhớ tính toán cho một chuyến đi cũng rất quan trọng.
- Bạn nhớ tắt máy sau khi đã kiểm tra xong.
2. Kiểm tra các thông số kỹ thuật của máy
Đây chính là một trong những nguyên nhân làm xấu ảnh của bạn khi chụp nhầm WB hay dùng ISO cao vào lúc không cần thiết...Vậy thì ta chỉ cần để 30 giây để tiến hành thao tác sau đây:
- Kiểm tra lại chế độ cân bằng trắng WB
- Kiểm tra lại giá trị ISO: bạn nên dùng ISO bé nhất khi có thể
- Kiểm tra lại kích thước ảnh/chất lượng ảnh: NTL khuyên bạn nên dùng kích thước lớn nhất cùng chất lượng cao nhất để dễ thao tác thêm v sau nếu cần.
- Kiểm tra lại các chế độ hỗ trợ như tăng độ sắc nét, độ tương phản, làm rực rỡ mầu sắc...: NTL khuyên bạn không nên dùng, nếu có thể, vì chúng chỉ làm cho ảnh của bạn...kém hơn mà thôi.
3. Thiết định các thông số kỹ thuật chụp ảnh
Với các loại máy dCam & BCam cho phép lựa chọn "mode" chụp ảnh thì bạn nên sử dụng. Với các loại máy ảnh tự động 100% với các modes mặc định thì bạn nên chọn đúng "mode" cần thiết cho tấm ảnh của mình.
- Chọn chế độ chụp ảnh tuỳ theo nhu cầu thực tế: Av hay Tv...
- Chọn chế độ đo sáng: nếu máy của bạn có khả năng đo sáng điểm "spot" thì bạn cần chú ý không sử dụng nó cho các thể loại ảnh nói chung vì spot đòi hỏi một kinh nghiệm sử dụng nhất định. Thông thường bạn có thể chọn đo sáng trung tâm hay đo sáng phức hợp.
- Chọn chế độ canh nét: có 2 loại canh nét là AF-S cho các chủ thể cố định và AF-C cho các chủ thể chuyển động. Nếu máy của bạn cho phép lựa chọn chế độ AF/MF thì bạn nên kiểm tra xem máy của mình có ở AF không nhé.
- Chọn chế độ đèn flash/chống mắt đỏ: thông thường bạn không cần sử dụng chế độ chống mắt đỏ trừ trường hợp chụp ảnh trong đêm tối. Bạn nên chủ động tắt hay bật đèn flash chứ không nên để ở chế độ "Auto".
- Kiểm tra lại chức năng hiệu chỉnh Ev xem nó có ở vị trí "0"? Bạn chỉ nên sử dụng chức năng này khi thật sự nắm vững nó.
4. Chụp ảnh
Có vẻ như ai cũng biết nhưng thực tế cho thấy rằng không phải ai cũng thao tác đúng việc canh nét và đo sáng. Bạn có thể đọc lại bài viết phía trên v thao tác canh nét. Một điu đơn giản cần nhớ là bạn chỉ bấm máy sau khi đã có đèn hiệu mầu xanh xuất hiện cùng tiếng "bip" nhỏ.

Chúc thành công và có nhiu ảnh đẹp!

III-3, Độ nét sâu của trường ảnh

Có thể bạn đã từng nghe nói tới thuật ngữ "Độ nét sâu của trường ảnh" hay từ viết tắt bằng tiếng Anh "DOF" (Depth Of Field)* và thắc mắc không hiểu nó có ý nghĩa và quan trọng thế nào với tấm ảnh của bạn? NTL sẽ cùng bạn tìm hiểu vấn đ này bằng cách nhìn chính xác và đơn giản nhất nhé.
Độ nét sâu của trường ảnh, DOF, là một khái niệm của nhiếp ảnh v vùng ảnh nét rõ phía trước và phía sau điểm canh nét. Hay nói một cách khác thì khi bạn chỉnh nét vào một điểm xác định thì phần ảnh phía trước và phía sau của điểm này cũng sẽ nét. Vùng nét rõ này được gọi là "Độ nét sâu của trường ảnh".
(Camera focused here = điểm canh nét của máy ảnh; Camera = vị trí của máy ảnh)
Độ sâu của trường ảnh được khống chế bởi nhiu yếu tố trong đó quan trọng nhất lkhẩu độ mở của ống kính "Aperture"**
Dưới đây là hình ảnh minh hoạ cho một số khẩu độ mở của ống kính tiêu chuẩn. Bạn sẽ được làm quen với các thuật ngữ như "Diaphragm"*** - hệ thống cơ khí gồm nhiu lam kim loại nhỏ có tác dụng xác định khẩu độ mở của ống kính; "f stop" - chỉ số xác định của từng khẩu độ mở của ống kính.

Như bạn đã thấy ở hình minh hoạ trên đây, khẩu độ mở của ống kính có hình một lỗ nhỏ mà kích thước của nó có thể được thay đổi bằng các lam kim loại. Lỗ mở càng rộng thì lượng ánh sáng đi vào càng nhiu và khi lỗ mở nhỏ thì lượng ánh sáng đi tới "sensor" hay phim ít đi. Chính kích thước của lỗ mở nó sẽ quyết định độ sâu của trường ảnh. Lỗ mở càng lớn thì DOF càng nhỏ. Lỗ mở càng bé thì DOF càng lớn.
Yếu tố quan trọng thứ hai ảnh hưởng tới độ sâu của trường ảnh là khoảng cách giữa máy ảnh và chủ thể. Với cùng một khẩu độ mở của ống kính thì khi máy ảnh càng gần chủ thể thì DOF càng nhỏ và khi máy ảnh càng xa chủ thể thì DOF càng lớn.
Ví dụ dưới đây minh hoạ rất rõ ràng sự khác biệt của DOF khi ta đặt máy ảnh ở gần chủ thể và thay đổi khẩu độ mở của ống kính.
Ở f/4 ta có thể thấy các hình máy ảnh phía trước và phía sau của điểm canh nét đu mờ.
Ở f/16 thì toàn bộ các máy ảnh đu nét.
Yếu tố thứ ba ảnh hưởng tới độ sâu của trường ảnh là tiêu cự của ống kính "Focal length"***** Ta vẫn nghe nói tới các ống kính góc rộng và ống kính télé. Tiêu cự của ống kính càng ngắn (góc rộng) thì độ nét sâu của trường ảnh đạt được càng lớn; tiêu cự của ống kính càng dài (télé) thì DOF càng nhỏ.
Việc khống chế độ nét sâu của trường ảnh là rất quan trọng trong nhiếp ảnh nghệ thuật. Với DOF nhỏ ta có thể làm nổi bật chủ thể trên một nn phông lu mờ. Với DOF lớn ta có thể đạt được hình ảnh nét từ tin cảnh tới hậu cảnh và như thế thấy rõ quan hệ giữa các chủ thể.
Với các máy ảnh SLR và dSLR thì việc kiểm tra độ nét sâu của trường ảnh được đơn giản hoá bằng một nút bấm nhỏ. Trên các máy dòng dCam và BCam không có chế độ này và chúng cũng không có luôn hệ thống cơ khí của các lam kim loại khống chế độ mở của ống kính. Với các máy dCam thì bạn có thể chọn trong "Image zone" (hay "Digital Vari-Program modes" với Nikon) chọn "Portrait" khi muốn có DOF nhỏ và chọn "Landscape" khi muốn có DOF lớn. Các máy BCam có chế độ Av - ưu tiên khẩu độ mở của ống kính giúp bạn dễ hình dung và kiểm soát DOF như với máy dSLR.
(Bài viết có sử dụng các thông tin v kỹ thuật của hãng Nikon cùng từ điển thuật ngữ kỹ thuật trong nhiếp ảnh của Photonotes.org)
------------
III-4, Tốc độ chụp ảnh
Ta đã nói v độ nét sâu của trường ảnh (hay DOF) và điu này có liên quan đến chế độ chụp ưu tiên khẩu độ mở của ống kính Av, bây giờ ta sẽ xem xét v tốc độ chụp của máy ảnh. Hẳn bạn đã không ít lần tự hỏi làm sao ta có thể chụp ảnh được dòng nước chảy mm như dải lụa hay biến một tia nước thành một khối nước đá đẹp như một tác phẩm điêu khắc hay trong những tấm ảnh thể thao có phông hoàn toàn lu mờ với vệt chuyển động theo hướng di chuyển của chủ thể...Không có gì bí mật cả, chìa khoá nằm trong việc lựa chọn tốc độ chụp ảnh. NTL sẽ cùng bạn tìm những tốc độ chụp ảnh cần thiết cho những trường hợp cụ thể nhé.
Nếu như trước đây các chế độ chụp ảnh chuyên dụng (M, AV, Tv) chỉ dành riêng cho máy ảnh SLR, dSLR, BCam thì gần đây dòng máy dCam cũng đã có các chức năng này. Ta hãy cùng tìm hiểu một chút ý nghĩa của những ký hiệu viết tắt này nhé.
- M có nghĩa là "Manuel", bạn sẽ không sử dụng các chức năng tự độngcủa máy ảnh (canh nét, đo sáng...) mà xác định các chỉ số này theo ý của mình.
- Av là viết tắt của "Aperture Value" - ưu tiên khẩu độ mở của ống kính. Nó có liên quan chặt chẽ tới độ nét sâu của trường ảnh và điu kiện ánh sáng cụ thể. (các bạn xem lại bài viêt v "Độ nét sâu của trường ảnh DOF")
- Tv là viết tắt của "Time Value" - ưu tiên tốc độ chụp ảnh. Bạn sẽ thấy ký hiệu này với các loại máy ảnh Canon, Pentax và Contax;
nhưng Nikon và Minolta lại dùng ký hiệu "S" - viết tắt của Speed -tốc độ trong tiếng Anh.
Điu đầu tiên bạn cần biết là tốc độ chụp của máy ảnh được tính bằng 1/giây, chẳng hạn: 1/30s, 1/125s, 1/250s...Những tốc độ chụp chậm hơn được tính bằng giây như: 1s, 2s,...
Có mấy nguyên tắc căn bản mà bạn cần biết khi ưu tiên tốc độ chụp ảnh. Đầu tiên là "luật f/16": trong điu kiện thời tiết tốt thì tốc độ chụp của máy ảnh tương ứng với khẩu độ mở của ống kính ở f/16 được tính bằng "1/chỉ số ISO của phim" mà bạn sử dụng. Chẳng hạn khi bạn sử dụng phim có ISO 64 thì ở f/16 tốc độ chụp sẽ là 1/60s; với phim ISO 100 thì tốc độ tương ứng sẽ là 1/125s; tính tương tự như thế ta có được 1/250s cho phim ISO 200....
Tốc độ chụp ảnh có liên hệ rất mật thiết với khả năng rung hình lúc bấm máy và như thế ta có nguyên tắc thứ 2: tốc độ chụp ảnh tối thiểu để không bị rung máy được tính bằng "1/tiêu cự của ống kính lúc chụp", chẳng hạn: bạn dùng ống kính 50 mm thì tốc độ chụp tối thiểu sẽ là 1/50s, với ống kính 100 mm sẽ là 1/100s, với ống kính 300 mm tốc độ sẽ là 1/300s...Tuy nhiên với những ai chụp ảnh nhiu kinh nghiệm và chủ thể không chuyển động thì tốc độ 1/15s là giới hạn cuối cùng của chụp ảnh cầm máy trên tay (không dùng chân máy ảnh)
NTL thỉnh thoảng vẫn chụp ở những tốc độ thấp hơn như 1/2s, 1/6s cầm tay, dĩ nhiên là với các ống kính tiêu cự ngắn, và ảnh không hbị rung. Một kinh nghiệm nữa để chụp ảnh các chủ thể chuyển động, tốc độ của máy ảnh sẽ phụ thuộc vào tốc độ di chuyển của chủ thể, là dùng đèn flash. Bạn có thể chộp được những khoảnh khắc chính xác của chuyển động với thời gian phát sáng của flash là 1/100 000s! (các đèn flash gắn sẵn trên máy thường có thời gian phát sáng khoảng 1/30 000s)
Với những bạn mới sử dụng máy ảnh hoặc chưa có nhiu kinh nghiệm thì việc ghi nhớ các thông số dưới đây là vô cùng cần thiết để có thể chụp ảnh đẹp mà không bị rung máy (trừ khi bạn cố ý muốn hiệu quả này):
- Tốc độ nhỏ hơn <1/60s bạn cần sử dụng chân máy ảnh hoặc đặt máy ảnh trên một điểm tựa vững chắc.
- Tốc độ 1/60s là giới hạn để chụp ảnh cầm tay
- Tốc độ 1/250 dùng để chụp các chuyển động
- Tốc độ từ 1/500s trở lên dùng để ghi lại chính xác những chuyển động nhanh và tinh tế
- Tốc độ từ 1/4000s trở lên có thể làm "đóng băng" các chuyển động.
Chúng ta hãy cùng xem xét các ví dụ dưới đây để thấy sự khác biệt trong kết quả của việc sử dụng chế độ ưu tiên tốc độ chụp ảnh.
Tốc độ 1/30s và bạn có thể thấy làn nước chảy bắt đầu mm mại. Bạn có thể sử dụng chân máy ảnh để chụp với tốc độ chậm hơn nữa và kết quả sẽ rất thú vị đấy.
Tốc độ 1/250s. Thường thì để tái tạo lại dòng nước giống như ta vẫn thấy thì tốc độ 1/125s là thích hợp nhưng 1/250s cho phép ta ghi lại nhưng chuyển động chính xác hơn.
Tốc độ 1/800s. Ở tốc độ này thì những tia nước bắn tung toé sẽ được "giữ" lại trong ảnh của bạn đấy.

Tốc độ 1/4000s. Hình khối thuỷ tinh mà bạn nhìn thấy chính là chi tiết của dòng nước chảy trong các ví dụ trên. Tốc độ cao đã bắt kịp những chuyện động ngay từ điểm khởi đầu của nó.
Việc sử dụng tốc độ chụp ảnh là một đ tài thú vị và rất rộng. Chúng mình sẽ còn có dịp bàn thêm v nó. NTL chờ đợi những thử nghiệm của các bạn nhé.

-----------------------------------------------------------
III-5, Các chế độ đo sáng
Metering Modes: Evaluative, centre-weighted average, Spot (centre or linked to focusing frame) *
Tạm dịch theo tiếng Việt là Đo sáng phức hợp hay Đa điểm/ Đo sáng Trung tâm/ Đo sáng Điểm. Mỗi chức năng này sẽ cho một hiệu quả
khác nhau khi chụp ảnh.

1- Đo sáng phức hợp
(NTL ưa dùng thuật ngữ này vì trong trường hợp máy ảnh có tính đến cả cự ly tới chủ thể nữa thì không thể chỉ gọi đơn giản là Đo sáng Đa điểm được): như bạn đã có thể thấy trong phần giải thích của Canon, kỹ thuật này dựa trên kết quả đo sáng của toàn bộ hình ảnh mà bạn đã khuôn hình (rất nổi tiếng với cách phân chia hình ảnh ra thành 256 vùng khác nhau) sau đó máy ảnh tính toán và so sánh kết quả với các trường hợp đã được tính toán sẵn từ trước và cho một kết quả (theo nhà chế tạo) là tối ưu cho từng trường hợp. Cách đo sáng này rất hiệu quả khi ánh sáng cân bằng giữa chủ thể và phông nn thế nhưng nó lại không cho được kết quả
chính xác khi có độ tương phản lớn hay chủ thể có b mặt kém phản xạ (hoặc ngược lại) ánh sáng. Khi chụp ảnh sinh hoạt gia đình hay trong các trường hợp ánh sáng dịu đu thì bạn nên sử dụng cách đo sáng này.

2- Đo sáng Trung tâm:
kỹ thuật này dựa trên kết quả tính toán v đo sáng của phần hình ảnh ở trung tâm khuôn hình mà không quan tâm đến ánh sáng ở vin ảnh. Nó có ích khi bạn biết chính xác vùng ảnh nào mình muốn ưu tiên ánh sáng. Thường thì kỹ thuật này được dùng rất hiệu quả khi bạn kết hợp với hiệu chỉnh thêm ảnh sáng "Exposure Compensation" mà NTL sẽ nói tới ở phía dưới đây.

3- Đo sáng Điểm:
đây là một kỹ thuật rất khó sử dụng với những ai chưa có nhiu kinh nghiệm v chụp ảnh. Nó cho phép bạn đo sáng chính xác một phần diện tích nhỏ của tấm ảnh (thường là bằng luôn phần diện tích của điểm tiêu cự tự động AF trong khuôn ngắm). Lý thuyết của nó rất đơn giản: nếu như ánh sáng tại một điểm là chính xác thì các điểm còn lại cũng sẽ chính xác. Nhưng bạn nên nhớ rằng chọn điểm đo sáng "Spot" đúng lại đòi hỏi rất nhiu kinh nghiệm thực hành đấy nhé.

4- Hiệu chỉnh kết quả đo sáng:
"Exposure Compensation" ** là một trong những kỹ thuật quan trọng mà bạn cần nắm bắt để có được một tấm ảnh đẹp đơn giản vì ánh sáng luôn thay đổi và mỗi tình huống một khác. Nguyên tắc căn bản của nó là: bạn nhìn thấy tấm ảnh của mình chụp "Sáng" hay "Tối"?
Nếu ta gọi kết quả đo sáng bằng chế độ tự động của máy ảnh là Ev (Exposure Value) thì bạn hãy xem sơ đồ dưới đây:
-3Ev, -2Ev, -1Ev, Ev, +1Ev, +2Ev, +3Ev
Thuật ngữ chuyên môn gọi nó là "The Zone System" nhưng ta hãy tạm quên nó đi nhé. NTL không muốn bạn rơi vào ma trận của những điu chưa cần thiết vào lúc này. Bạn có thể hình dung rất đơn giản: từ trị số Ev ban đầu, nếu bạn tiến v phía bên phải +3Ev thì hình ảnh của bạn sẽ hoàn toàn trắng xoá, nếu bạn tiến v phía bên trái -3Ev thì hình ảnh của bạn sẽ đen tuyệt đối.
Vậy ta có thể áp dụng nó như thế nào trong thực tế?
- Trong một ngày trời nắng và bạn muốn tấm ảnh của mình chụp có độ tương phản cao thì nên hiệu chỉnh Ev v phía trị số (-) âm. Cách hiệu chỉnh này cũng sẽ làm tăng độ bão hoà của mầu sắc, nghĩa là mầu trong ảnh của bạn sẽ thắm hơn, rực rỡ hơn. Khi bạn chụp đèn Flash "Fill-in" ngoài trời thì việc hiệu chỉnh -Ev sẽ làm nổi bật chủ thể rất đẹp.
- Khi bạn chụp ảnh một ai đó trong bóng râm mà hậu cảnh là trời nắng chẳng hạn thì nếu như cự ly xa hơn tầm phủ của đèn flash "fill-in" thì cách tăng trị số (+) dương của Ev sẽ giúp bạn thể hiện chủ thể rõ ràng (nhưng hậu cảnh sẽ bị thừa sáng đấy nhé, hay nói một cách khác là bạn đã tăng trị số +Ev cho hậu cảnh). Đó hoàn toàn chỉ là một ví dụ để bạn có thể hiểu dễ dàng việc hiệu chỉnh kết quả đo sáng mà thôi, bản thân nó không phải là một giải pháp hiệu quả nhất khi chụp ảnh.
- Ngoài ra thì kỹ thuật hiệu chỉnh Ev này còn giúp bạn tránh được những "bẫy" ánh sáng mà ta vẫn thường xuyên gặp khi chụp ảnh. Ví dụ: hầu hết các máy ảnh đo sáng dựa trên số phần trăm (%) phản xạ của ánh sáng từ chủ thể (quy ước là 18% tương đương với ánh sáng đúng) thế nhưng nếu bạn chụp một cánh rừng xanh nhiệt đới thì độ phản xạ này nhỏ hơn 18% tiêu chuẩn và máy ảnh tự động tăng thêm khẩu độ ánh sáng nhằm cân bằng bức ảnh của bạn, vô tình tấm ảnh của bạn bị thừa sáng "Over-exposure" *** Còn trong trường hợp bạn chụp ảnh một cảnh tuyết rơi mà mầu trắng của tuyết phản xạ ánh sáng lớn hơn 18% thì máy ảnh lại tìm cách giảm bớt khẩu độ ánh sáng "F-stop" **** và như thế tấm ảnh của bạn bị thiếu sáng "Under-exposure" ***
Trong trường hợp thứ nhất bạn cần hiệu chỉnh Ev v trị số (-) âm và trong trường hợp thứ hai bạn cần hiệu chỉnh Ev v trị số (+) dương.
NTL hy vọng với bài viết ngắn gọn này đã giúp bạn hiểu rõ hơn v một trong những kỹ thuật căn bản nhất của máy ảnh. Nó được áp dụng cho tất cả các loại máy ảnh hiện hành. Nếu bạn thấy có phần nào chưa rõ ràng và chính xác thì phản ánh lại với mình nhé.
(Bài viết có sử dụng các thông tin kỹ thuật của hãng Canon)
-----------------------------------

III-6, Các hiệu chỉnh khác

1. Cân bằng trắng (White Balance)
Đây là yếu tố quan trọng bậc nhất của kỹ thuật số để có thể chụp được một bức ảnh mâu sắc như ý. Thường thì trong các máy dCam chế độ WB được mặc định ở tự động (Auto). Nếu bạn để ý một chút thì khi chụp ảnh ở Auto WB thì máy ảnh luôn có xu hướng chỉnh màu theo nhiệt độ sáng trung bình và như thế bạn sẽ có một tấm ảnh chụp hoàng hôn nhợt nhạt hay trong những cảnh khác thì ánh sáng thiếu tự nhiên và tông màu chủ đạo thường là đỏ ánh mầu da cam.
May mắn thay bên cạnh đó bạn còn có khả năng chỉnh WB theo các điu kiện ánh sáng khác nhau, có độ chính xác cao hơn. Như thế bạn hoàn toàn có thể tái tạo lại ánh mặt trời buổi chiu một cách trung thực với chế độ "Daylight" hay làm cho tông màu trở nên ấm áp hơn trong những ngày mây mù bằng việc lựa chọn "Cloudy". Với ánh sáng nhân tạo thì chế độ "Tungsten" thường hay bị thiên sang màu xanh do máy ảnh lọc màu vàng quá mạnh và trong các điu kiện nguồn sáng phức hợp như ngoài đường thì chế đọ này không thể đáp ứng được. Trong trường hợp này giải pháp hay nhất là tự cân bằng sáng bằng một mảnh giấy trắng và như có một phép màu nhiệm tất cả các tông màu khó chịu sẽ biến mất khỏi tấm ảnh của bạn. Điu duy nhất cần nhớ là luôn bỏ trong túi một mảnh giấy mầu trắng.

2. Độ nhạy sáng ISO
Chế độ tự động chỉnh độ nhạy sáng theo điu kiện ánh sáng lại không phải là một giải pháp tốt cho độ mịn màng của những tấm ảnh đơn giản vì bạn không biết khi nào mình đang chụp ở 200, 400 hay thậm chí 800 ISO! Vì lẽ đó bạn nên đặt độ nhạy ISO của máy thường trực ở 50 hoặc 100 ISO nếu không đủ sáng thì đèn tín hiệu cạnh khuôn ngắm sẽ nhấp nháy báo động. Trừ khi là bạn muốn cố tình tạo những hạt ảnh một cách nghệ thuật thì việc lựa chọn ISO tối đa 200 ISO là cần thiết. Trên thị trường hiện tại đang có bán rất nhiu loại chân máy ảnh nhỏ và nhẹ dùng cho máy kỹ thuật số, một thiết bị như thế sẽ giúp bạn luôn có những tấm ảnh đẹp với độ mịn màng cao nhất.

3. Hiệu chỉnh Bão hòa mầu sắc và Nét căng
Với các máy dCam thì tính năng này không phải là tuyệt hảo. Bạn cần sử dụng chúng một cách cẩn trọng và tốt hơn hết là nên thử nghiệm trước vài lần để biết kết quả. Khi chụp ảnh phong cảnh thì bạn có thể chọn chế độ bão hoà mầu sắc và nét căng hơn để khắc phục nhược điểm của chất lượng ống kính thế nhưng khi chụp ảnh chân dung hay cận cảnh thì sự mm mại của đường nét lại đòi hỏi bạn giảm độ nét căng đi đấy nhé.

4. Hiệu quả đặc biệt
Đa phần các dCam có rất nhiu chức năng này nhưng NTL có thể nói ngay với bạn rằng không nên sử dụng chúng vì chất lượng không cao. Thêm vào đó với máy tính và PhotoShop thì bạn hoàn toàn có thể áp đặt các hiệu quả này với chất lượng hoàn hảo nhất.
5. Tối ưu hoá chất lượng ảnh kỹ thuật số.
Thường thì bạn hay nghe nói tới việc dùng Photoshop để xử lý thêm hình ảnh sau khi chụp nhưng với đa số các bạn nghiệp dư thì lĩnh vực này hay đẫn đến...ngõ cụt vì chất lượng ảnh không như ý. Vậy cần phải làm thế nào?

- Chỉnh ánh sáng và độ tương phản
Với các máy dCam thì khả năng nhạy sáng của các mạch điện tử cảm quang thường rất kém do đo chúng ta cần xử lý thêm để lấy lại độ cân bằng của ánh sáng. Thay vì sử dụng một cách "tự nhiên" chức năng "Light/Contrast" mà tính hiệu quả của nó thường không ổn định thì bạn nên dùng chức năng chỉnh "Level" có tác dụng trực tiếp vào "History" của hình ảnh. Với PhotoShop CS bạn có thể hiệu chỉnh bằng nhãn quan trực tiếp từng lớp màu RGB (Đỏ-Xanh lá cây-Xanh da trời) bằng cách điu chỉnh 3 con trỏ biểu thị cường độ hay tác động vào điểm đầu và cuối của mỗi đồ thị mầu.
- Chỉnh màu sắc
Trức khi chỉnh màu sắc bạn cần phải chắc chắn là màn hình của mình đã được "căn" đúng theo mầu sắc thực bằng tiện ích của chính Photoshop "Adobe Gamma" (NTL sẽ nói lại vấn đ này trong một bài khác) và cần để cho màn hình "nóng" ít nhất 30 phút trước khi bắt đầu công việc. Bạn có thể lựa chọn giữa việc hiệu chỉnh mầu sắc đồng loạt hay từng mầu đơn lẻ. Cửa sổ hiển thị kết quả trước và sau khi có tác động rất dễ hiểu và tiện lợi.
- Hiệu chỉnh độ nét
Đa số các dCam cho bạn hình ảnh rất nhẹ nhàng và như thế đôi khi tăng cường độ nét lại là cần thiết. Không nên chọn tính năng tăng
cường đường vin mà bạn nên sử dụng chế độ chỉnh nét dần từ thấp đến cao.
6. Lọc mầu và ảnh đen trắng
Với kỹ thuật số bạn có thể an tâm để bộ kính lọc mầu đắt tin và dễ vỡ ở nhà vì tất cả những kỹ thuật tinh tế theo kiểu cổ điển giờ đây đu có thể đạt được dễ dàng bằng máy tính.
Bạn cũng không phải lo lắng nếu như muốn chụp ảnh đen trắng nữa nhưng nên lưu ý rằng chức năng chuyển tùa ảnh mầu sang đen trắng sẽ làm chuyển một bức ảnh hàng triệu mầu của bạn thành 256 cấp độ đen trắng mà thôi. Giải pháp haòn hảo nhất là xoá bỏ các thông tin v mầu sắc trong ảnh của bạn.
Cần nhớ: Hội nghệ sĩ nhiếp ảnh thế giới đã thống nhất với nhau rằng một tấm ảnh chụp vhiệu chỉnh bằng kỹ thuật số có giá trị tương đương với một tấm ảnh được phóng từ phim cổ điển và dụng các kỹ thuật buồng tối với điu kiện duy nhất: không được thấy các chi tiết không có thực khi chụp ảnh.
Chúc bạn có được những tấm ảnh đẹp như ý.

 -------------------------------------------------------

IV, NGÔN NGỮ NHIẾP ẢNH

IV-1, Less is more
"Less is More" đó chính là nguyên tắc căn bản quan trọng hàng đầu với những người nhiếp ảnh phong cảnh tự nhiên, đặc biệt
là cảnh núi rừng và biển cả. Đó chính là một cách nhìn mới lạ v thế giới xung quanh ta để tìm ra được những hình ảnh đơn giản đến tận cùng thật ấn tượng.
Những hình ảnh chứa đựng trong chúng không h nhiu chi tiết tạo hình của đường nét mà ngược lại người xem cảm thấy bị xoáy vào một chi tiết rất nhỏ - trung tâm hiển nhiên của hình ảnh.
Với bất kỳ chủ đ nào dù quan trọng hay tầm thường, dù đó là một loài vật, một cọng cỏ hay chỉ một mẩu khoáng chất thì đu có thể trong bất kỳ hoàn cảnh nào phục vụ chúng ta để tạo nên những hình ảnh tối giản đơn: bởi chất liệu, bởi ánh sáng đặc biệt, tông màu đơn giản, bố cục giản đơn hay lặp lại, vùng nét thật hẹp, kích thước chủ thể thật nhỏ, tỉ lệ so với khuôn hình, cách sử dụng bóng đổ...

Canon PowerShot S400
Shooting Mode: Manual
Photo Effect Mode: Off
Tv( Shutter Speed ): 1/400
Av( Aperture Value ): 7.1
Metering Mode: Evaluative
Exposure Compensation: -1/3
ISO Speed: 50
Focal Length: 7.4 mm
Image Size: 1600x1200
Image Quality: Superfine
White Balance: Daylight
AF Mode: Single AF
AF Range Mode: Macro
File Size: 721KB
Thường thì một hình ảnh đơn giản ít khi đập ngay vào mắt người chụp ảnh. Cần có thêm thời gian, sự kiên nhấn và quan sát tỉ mỉ. Sự sáng tạo là kết hợp của cách nhìn, cách khuôn hình, cách chỉnh vùng nét, đo sáng...Cũng như thế, bằng sự kết hợp của nhiu bố cục với các điểm nhìn khác nhau bạn có thể tạo ra nhiu hình ảnh hấp dẫn khác nhau của cùng một chủ thể. Nhiếp ảnh là kết quả của sự lựa chọn về sự bó buộc, nó không bao giờ tái tạo lại trung thực hoàn toàn sự thực: đơn giản nó chỉ là một sự tái tạo lại hiện thực đa chiu, đa dạng.
Canon EOS D60
4s f/22.0 at 35.0mm iso100
Chỉ một động tác chọn lựa cặp chỉ số phơi sáng/tốc độ chụp đã là yếu tố quyết định trong nhiếp ảnh tinh giản rồi. Việc lựa chọn khẩu độ sáng sẽ quyết định sự ưu tiên dành cho cùng ánh sáng mạnh hay yếu đồng thời nó cũng ảnh hưởng tới vùng nét sâu của ảnh. Mỗi một cách hiệu chỉnh sẽ đem lại một kết quả khác nhau. Bây giờ thì bạn sẽ là người lựa chọn nhiu điểm nhìn khác nhau cho cùng một chủ thể để có thể tìm ra và thể hiện thành công một phần "sự thật" của nó.
Sự định hướng như đã nói ở trên không chỉ đúng riêng cho nhiếp ảnh tinh giản mà lý luận của nó thật sự đóng một vai trò quan trọng trong sáng tác. Thật sự là như thế, một hình ảnh tinh giản có vẻ như rất dễ thực hiện bởi cấu trúc đơn giản của nó nhưng thực tế cho thấy để có thể đạt tới những cái nhìn tinh giản ấy bạn thật sự phải làm chủ được v bố cục, và có một sự cẩn trọng rất lớn v các chi tiết bởi vì chỉ cần một yếu tố thừa sẽ làm mất đi sự hài hoà chung của tấm hình. Trước khi bấm máy bạn cần quan sát thật kỹ lưỡng bốn góc của khuôn ngắm để tránh thu vào hình những tiểu tiết thừa.
Trong nhiếp ảnh tinh giản bạn hoàn toàn có thể sử dụng tất cả các loại ống kính từ góc rộng tới télé. Nếu như bạn muốn ép tất cả lên trên một mặt phẳng đồng thời giảm độ nét sâu thì ống kính télé là thích hợp, còn nếu như bạn muốn tạo một trường ảnh rộng với các mô-típ lặp lại, hay tạo một phối cảnh biến dạng lạ mắt hoặc đơn giản hóa hình ảnh bằng cách chụp ở cự ly gần...thì ống kính góc rộng là cần thiết. Trong mọi trường hợp thì ống kính "macro" là sự lựa chọn tuyệt vời để có thể đi sâu vào chi tiết.
Nikon D100
1/160s f/3.2 at 200.0mm
Nếu bạn yêu thích tranh Thuỷ mạc của Trung Quốc thì việc vận dụng cách tạo bóng đổ và đường nét đơn giản sẽ là một hiệu quả bất ngờ đấy. Hay là bạn có thể chụp một cảnh ngược sáng để nhấn mạnh chủ thể. Những buổi sớm sương mù che phủ cảnh vật cũng là thời điểm tốt để thể hiện một tiêu điểm trung tâm.

Sử dụng chân máy ảnh cùng tốc độ chậm sẽ giúp bạn làm nổi bật một chủ thể tĩnh trên nn động chẳng hạn như hình ảnh một chú chim nhỏ đậu bên bờ suối. Bên cạnh đó thì việc tạo hiệu quả bằng tốc độ chậm, chụp cầm tay và bám theo đối tượng cũng sẽ giúp bạn xoá đi những chi tiết không cần thiết của phông nn đồng thờ có được những vẹt nhoè rất nghệ thuật. Tuy nhiên kỹ thuật này ta không hoàn toàn làm chủ kết quả của hình ảnh được.

Less is More đơn giản chỉ là một cái nhìn khác về hình ảnh, một cách thức sáng tạo và những khả năng phong phú của bạn.
Biển Địa Trung Hải.
Zoom Nikkor 70-300, chụp tại 300mm.
Phim Fuji Superia 200 ISO. Scan tại Labo.


Biển Egée nhìn từ đn thờ Thần biển.
Zoom AF Zoom-Nikkor 70-300mm f/4-5.6D ED. Chụp tại 200 mm.
Phim Fuji Superia 200 ISO, scan tại Labo.

Câu nói tựa đ thuộc v nghệ sĩ tài hoa Markus Raetz, ông không những chỉ là một hoạ sĩ, điêu khắc gia, nhiếp ảnh gia, nhà thơ, một người làm nghệ thuật chân chính là ông chính là tổng hoà của tất cả những gì gọi là nghệ thuật.
Tôi không nhớ tên của một nghệ sĩ nhiếp ảnh danh tiếng đã nói rằng "Tôi chụp ảnh vì vẽ tranh không đẹp". Trong câu nói đầy hài hước ấy là cả một tài năng bởi vì Nhiếp ảnh là Vẽ bằng Ánh sáng.
Trong nghệ thuật không có ranh giới v sáng tạo, chỉ có một chút khác biệt v hình thức và phương tiện thể hiện mà thôi. Nhiếp ảnh là một nghệ thuật như thế.
Vậy thì thế nào là "vẽ bằng ánh sáng"?
Trong những bài viết v mầu sắc trong nhiếp ảnh NTL đã đ cập một phần nào đến điu này. Nếu ta nói một hình ảnh được tạo nên bởi đường nét và mầu sắc (hay độ tương phản khác nhau) thì chính là ta đang nói v ánh sáng. Bạn nhìn thấy đường nét bởi vì chúng được tạo nên bởi sự khác biệt v mầu sắc (hay độ tương phản trong ảnh đen trắng) và bạn có thể cảm nhận được mầu sắc bởi vì chúng phản xạ từ vật thể vào mắt ta bằng Ánh sáng.
Với ánh sáng người nghệ sĩ nhiếp ảnh dường như chỉ có mộ "mầu" duy nhất - mầu trắng nhưng ẩn chứa trong nó là những tông mầu của một quang phổ bất tận. Thông qua những thấu kính, phim ảnh...hay nói một cách khác chúng chính là "cây cọ vẽ" của người chụp ảnh, bạn có thể lựa chọn mầu sắc và đặt chúng lại với nhau trong một bố cục đầy ngẫu hứng và sáng tạo. Dĩ nhiên là với một khuôn ngắm của máy ảnh bạn không thể để nét cọ vẽ tràn ra ngoài như một hoạ sĩ vẽ tranh nhưng ánh sáng chính là tự do. Không có gì cản nổi bước đi của ánh sáng trong sáng tạo. Chính sự bó buộc của khuôn hình ấy sẽ tạo nên cảm giác bức bối dẫn tới bùng nổ của mầu sắc - ánh sáng trong nhiếp ảnh.
Nhiếp ảnh chỉ đơn thuần là những mảnh vụn của thế giới quanh ta. Người nghệ sĩ nhiếp ảnh tài ba là người có thể tái tạo lại những điu hiện thực ấy một cách sáng tạo, độc đáo và điu quan trọng nhất là làm cho chúng ta - những người xem ảnh, cảm thấy được sự tiếp nối, cảm thấy được sức sống tràn tr của những cảm xúc không lời ấy, một khoảnh khắc mà không là tĩnh tại, luôn gắn bó với thiên nhiên.
Thử hình dung một tia sáng đến từ mặt trời. Một khuôn hình bằng bốn ngón tay. Nhiếp ảnh đơn giản nằm giữa những điu ấy. Trong suốt và tiếp nối. Nếu như bạn có ý định đặt nhiu khuôn hình cạnh nhau để tái tạo lại toàn cảnh của ánh sáng thì điu ấy sẽ không bao giờ là hiện thực bởi vì trong từng khoảnh khắc ánh sáng đã đổi thay.
Những tia sáng mảnh mai mà đầy sức sống ấy đi xuyên qua những lớp thấu kính được tráng phủ nhiu mầu, đập vào tấm gương phản xạ rồi đi tới con mắt người nghệ sĩ. Không trọng lượng. Liệu có gì còn nhẹ hơn cả ánh sáng? Có đấy, đó chính là cảm xúc của sáng tạo đầy ngẫu hứng bắt nguồn từ chính trái tim và tâm hồn mình. Cội rễ.
Nothing is lighter than light but photographer's inspiration

IV-2, Tương phản trong Nhiếp ảnh
Ngoài tiếng nói, chữ viết chúng ta đang "nói" với nhau hàng ngày. Chúng ta có thể coi những bức ảnh là những bài văn, bài thơ của "ngôn ngữ thị giác". Trong loại hình nào cũng vậy, nếu chúng ta biết nhiu từ vựng, cách diễn đạt cũng dễ hơn chút xíu, đồng thời cách cảm nhận cũng "phê" hơn . Ngày bé tôi rất thích môn mật mã và tự nghĩ ra những quy luật riêng để bạn bè viết thư cho nhau, cách để phá mật mã là nghiên cứu những chữ cái, từ vựng hay dùng để dò ngược lại. Như tiếng anh là chữ E hay được sử dụng, trong nhiếp ảnh tương phản cũng rất hay dùng . Một ví dụ chỉ mang tính giải thích, các bác đừng đi theo em mà lại hỏng thì chết .
Vậy có những loại tương phản gì, chính xác là tính tương phản gì chúng ta hay sử dụng
1. Tương phản giữa rõ và mờ:
Cái này phải kể đầu tiên vì chúng ta chưa có khái niệm nhưng nó vẫn cứ xuất hiện trong ảnh . Nhờ đặc tính quang học, kỹ thuật của ống kính, chúng ta cứ "giã" khẩu độ mở lớn mà dí sát mặt "nạn nhân" thì thể nào chả mặt rõ, hậu cảnh mờ tịt, hay chót "tay to" quen cầm 200mm-400mm mà "bắn tỉa" các em thì cũng dễ làm nổi chủ thể trong một hậu cảnh mờ (nhưng lưu ý lấy nét sai một ly là đi cả dặm nhé, ca sĩ hát mà bắn vào cái míc thôi mặt đã mờ rồi).
Loại này thường được sử dụng trong những "áng văn thơ" tả v chân dung một thực thể tồn tại trên thế gian này : Đó là ảnh chân dung, các loại động vật (thú, con trùng...), sinh vật, cận cảnh...
u ý: Cũng có thể làm mờ hậu cảnh nhờ tính năng của P/S

2. Tương phản giữa động và tĩnh:
Chắc cũng có bác quen tư duy lật lại vấn đ như mấy cái topic vừa tranh luận , sẽ lại đặt câu hỏi là tương phản để làm gì, tôi chẳng cần tương phản chẳng hạn . Cái này thì em "pó tay", chỉ biết rằng một bức ảnh tốt phải là một bức ảnh có "lực hút", như đôi mắt "hút hồn" của thiếu nữ vậy . Đôi mắt đẹp thì hút bác ngắm lâu, mắt chưa đẹp (không có mắt không đẹp đâu nhé ) thì hút ít. Và tương phản góp phần tạo ra cái lực hút ấy.Vậy thôi!
Bây giờ chúng ta lại đi tiếp nhé, cái loại tương phản này để cho chúng ta diễn tả một hành động, nổi bật trong khung ảnh. Tránh cho những động tác trở nên "đông lạnh". Đây là cách vận dụng tốc độ và một số kỹ thuật chụp (cũng như sử dụng dof trong tương phản mờ tỏ, xin được trình bày tốc độ trong Hình ảnh theo con mắt của máy ảnh mục Kỹ thuật số).
Chúng ta có thể để tốc độ chậm làm cho những làn xe chạy đêm, nghệ sĩ đang biểu diễn (múa, vũ balê)... mờ trong một hậu cảnh rõ.
Hoặc dùng cách lia máy kết hợp hiệu ứng zoom để làm điu ngược lại: Chủ thể rõ trong một hậu cảnh mờ (vận động viên chạy vđích...).
u ý:  Tuy cũng là mờ và rõ những nó khác hẳn tính chất Tương phản giữa động và tĩnh, đen và trắng...

3. Tương phản v sắc độ:
Hay còn gọi là tương phản v độ đậm nhạt, một chấm đên nổi bật giữa nn trắng, trong đêm tối mênh mông có một ánh lửa hồng... Nói chung là có chủ thể và các yếu tố xung quanh tương phản v sắc độ đậm hay nhạt, chủ thể "nhạt" thì xung quanh "đậm" và ngược lại.

4. Tương phản v ý nghĩa:
Trong cuộc sống nếu bạn không có lúc buồn (vì vậy mà tôi cũng phải cảm ơn cho ai mang cho tôi nỗi buồn chứ và cũng phải tạo ra nỗi buồn "giả vờ" cho người khác: bạn đã bao giờ giả vờ lỡ hẹn với "người ấy" chưa? )bạn chẳng hiểu hết ý nghĩa của nim vui, bạn chưa đói nghèo chưa chắc bạn đã thấu hiểu sự hạnh phúc khi no ấm, bạn đã gặp những người lương thiện, đôi lúc cũng phải gặp người không lương thiện. Mặc dù người không lương thiện chỉ là người có cái thiện nhưng ít hơn cái ác theo quan niệm của bạn mà thôi Nhiu người đang hạnh phúc bên "người đằng sau" mà không biết chỉ khi mất đi, lúc gặp nhiu "người đằng sau" nữa chúng ta mới biết được:

"Có khi nào trên đường đời tấp nập; Ta vô tình đi lướt qua nhau..." ...
Đời là thế, ảnh là thế!
Chính vì vậy mà già bên trẻ, giàu sang bên nghèo hèn, buồn bên vui, thô kệch bên dịu dàng, trong sáng thơ ngây bên con cáo cụ ... luôn được các nhiếp ảnh gia sử dụng. Vì thế những bức ảnh chụp người già bên trẻ chúng ta có thể hiểu là một thủ pháp nghệ thuật hơn là sự trùng lặp
Nói thêm là già với trẻ thường được các nhiếp ảnh gia sử dụng phương pháp đặc tả (v phương pháp thể hiện xin trao đổi riêng), nên thường chỉ cần bàn tay, bàn chân của người già và trẻ em là được, nếu bác nào tóm được khoảnh khắc Quốc Vượng, Văn Quyến buồn đằng sau nụ cười chiến của các cầu thủ Thái Lan hoặc gần nhất là "kết hợp được" với nụ cười bước đầu hoàn thành nhiệm vụ của các chiến sĩ công an trong "Nghi án bán độ" chẳng hạn... cũng độc chứ nhỉ

5. Tương phản v màu sắc:
Bác Khoiyte nhà ta nếu vẽ chắc sẽ rất chủ động v màu sắc, nhưng chụp ảnh thì ít chủ động hơn nhưng ngược lại màu sắc lại phong phú hơn rất nhiu. Như màu tím của cái Hoa súng tôi chụp vừa rồi bác có nói là chưa thể pha được? Nói v màu sắc thì các bạn chỉ cần nhớ rằng những màu hài hòa với nhau, hợp nhau chính là những đồng chí nằm cạnh nhau trong dãi quang phổ (như vàng với cam...), còn những đồng chí nằm đối xứng nhau ở dãi quang phổ, được coi là những màu "đập nhau", hay tương phản nhau. (Cái này các nhiếp ảnh nữ nắm kỹ lắm vì nó ảnh hưởng đến cách ăn mặc mà ) chẳng hạn như xanh và đỏ, vàng và tím, xanh lục và cam... Người ta còn phân chia làm hai loại màu nóng và lạnh, một nễn lạnh có một điểm nhấn nóng, hay một nn nóng có chấm lạnh, thường giúp cho ảnh có "lực hút" hơn.
Rất  mong các bác họa sĩ có gì trao đổi hay tập hợp các màu nóng và lạnh thì cho vào đây nhé!
u ý: Độ phản quang của màu cũng rất cần lưu tâm tới.
Màu nóng thì như đỏ, cam, vàng nghệ... Màu lạnh có xanh, lục sẫm, tím... Màu nóng (thiên v đỏ) kích thích chúng ta hoạt động trong khi màu lạnh (thiên v xanh) khiến chúng ta trở nên thụ động, muốn nghỉ ngơi.

Màu đen không phải là một màu vì từ nó không phát ra một tia sáng nào. Màu trắng cũng không phải là một màu vì nó là một tập hợp của nhiu màu.

6. Tương phản âm thanh:
Cái tương phản này là rất "đắt" lắm đó, nhất là nó lại kết hợp với các loại tương phản khác, bởi âm thanh trong một bức ảnh "tĩnh" là một điu thật tuyệt khi mà ta "nghe qua mắt". Một thứ kiểu nghe riêng của nhiếp ảnh: Đó là sự ồn ào bên lặng lẽ, sự tĩnh lặng bị đánh thức bởi một tiếng động, sự du dương của tiếng đàn trong một khung cảnh lãng mạn, im ắng...

7. Tương phản tỷ lệ:
Không có người lùn sao định nghĩa được người cao, mà cũng không có người cao làm sao chúng ta mới biết mình đang lùn .Tương phản tỷ lệ "ý tứ" nó là vậy, một đứa trẻ bao quanh là nhưng người lớn (lớn v hình thể thôi nhé, hay v "lượng" ), một ngôi nhà cao lớn bao quanh là những nhà tránh bão lùn tịt... luôn làm cho bức ảnh tăng thêm sự chú ý của người xem.

8. Tương phản giữa những thứ tương phản
Cái mục này tôi viết để muốn nói rằng chúng ta học, chúng ta phân biệt, rồi chúng ta sẽ quên đi để khi nào chụp nó lại hiện v. Giống như học võ học được ý tứ, tinh hoa của miếng đánh rồi khi gặp nó sẽ "tự phát" mà thôi... Đại ý là thế này: Nói tóm lại thì cái tương phản là  sự thống nhất giữa các mặt đối lập, nó là sự giao hưởng giữa cái "Mơ" cái "Thực", giữa những những điu ổn định, chắc chắn... với biến đổi, hay mong manh dễ vỡ kiểu bác Tiny .... Và từ đó chúng ta có thể so sánh đủ thứ:

- Giữa trong và đục
- Giữa mịn màng và gai góc
- Giữa thanh và thô giáp
- Cái hợp lý trong vẻ lôn xộn
- Cái khéo léo trong vẻ vụng v.
- Giữa sắc gọn và hoen nhoè
- Cả cái không gian nằm trên cái mặt phẳng...

Và nhiu không kể hết, chỉ mong bài viết sẽ giúp ích phần nào cho mọi người chưa biết.
----------------------------------



IV-3, Quy tắc bố cục tranh phong cảnh
Tác giả: Johannes Vloothuis
Tôi sưu tầm ở đây môt loạt quy tắc (hay hơn nên gọi là mẹo) bố cục tranh mà khi sử dụng đúng thì sẽ giảm bớt sai lầm trong các bức tranh phong cảnh. Đây là những mẹo có ở trong hầu hết các sách dạy vẽ phong cảnh cộng với một số ý tưởng riêng của tôi. Xin nhắc các bạn trước: đừng để cho những quy tắc này trói buộc bạn. Quy tắc chỉ giúp bạn lúc bạn băn khoăn có quá nhiu thành tố muốn đưa vào tranh mà không biết sắp xếp ra sao. Quy tắc được là ra để người ta sử dụng, và vi phạm nhưng biết các quy tắc căn bản thì chí ít khi vi phạm quy tắc bạn cũng biết rõ mình đang vi phạm quy tắc nào, thay vì vi phạm chỉ vì không biết. Có đến 4 chục quy tắc nên tốt nhất bạn nên kiếm ly cà phê vừa đọc vừa uống thì hơn.

1. Hãy nhìn vào bức tranh trên đây. Một bức tranh phong cảnh cần phải có một trung tâm chú ý, một điểm nhấn, là khu vực đẹp nhất. Điểm nhấn có thể được nhấn mạnh ở vị trí của nó và bằng màu sắc và độ tương phản.
Một điểm nhấn tốt thường có:
* Màu mạnh nhất.
* Thay đổi đột ngột v độ tương phản.
* Nên nhưng không nhất thiết chiếm một phần tương đối lớn của bức tranh.
* Những cấu trúc do con người tạo nên, động vật hoặc hình dáng con người cũng giúp tăng thêm điểm nhấn. Đó là những diến viên chính.
* Khu vực xung quanh phụ trợ cần phải hướng người xem đến điểm nhấn bằng một chỉ báo hoặc một đường dẫn (xem hình 1 & 2)
* Điểm nhấn không nên đặt ở chính giữa bức tranh, tốt nhất là ở tỷ lệ 1/3.
* Điểm nhấn không nên bị che khuất, dù chỉ là một chút. Làm thế sẽ làm giảm tầm quan trọng.
* Một điểm nhấn được chọn tốt sẽ thu hút tâm trí người xem.

Hình 2: Cây gỗ trong bức ảnh này được đặt ở vị trí phù hợp làm đường dẫn cho mắt người xem hướng tới điểm nhấn:

Hình 3: Trong bức tranh này đường vin mé nước là đường dẫn cho người xem hướng tới cây cầu là nhân vật chính trong bức tranh.

2. Bạn có thể tạo một điểm nhấn thứ 2 trong tranh, coi như chương 2 trong câu chuyện của bạn. Tôi khuyên các bạn mới tập vẽ không nên dùng phương pháp này đến khi bạn thật sự thành thạo vì có thể 2 điểm nhấn sẽ cạnh tranh với nhau. Hai điểm nhấn không được chồng lấn nhau. Một điểm phải lớn hơn và mạnh hơn. Cách tốt nhất là 2 điểm nhấn chéo nhau. Nếu không chéo được theo phương án 2 là theo phương nằm ngang.

Hình 4: Bức tranh dưới đây có thể đẹp mà không cần có bụi cây hoa ở phía dưới. Tuy nhiên tác giả đã quyết định thêm nó vào làm điểm nhấn thứ 2 cho bức tranh.

3. Nên tránh đẩy người xem ra ngoài bức tranh bằng cách có những thànhh tố chỉ ra vin tranh hoặc chạy ra ngoài tranh, ví dụ: cây gỗ, con đường, dòng sông chạy ra ngoài bức tranh. Lỡ có mà khó tránh được thì đặt một cái gì đó chặn không cho người xem đi ra ngoài tranh. Quy tắc tối thiểu là người và động vật nên hướng v người xem và vào phía giữa bức tranh.
Hình 5: Hãy chú ý đến con ngựa ở bên phải bức tranh này. Chú ý họa sĩ đã làm giảm giá trị con ngựa này bằng cách vẽ nó màu sẫm và nhòa vào với bụi cây. Nếu con ngựa này màu sáng hơn và tương phản với nn thì rõ ràng nó đã hướng người xem chạy thẳng ra ngòai
bức tranh.

Hình 5a. Hãy nhìn bức tranh thứ 1 dưới đây. Cây gỗ quá thẳng và chỉ thẳng ra ngoài bức tranh. Bức thứ 2 đã được sửa, một vài cành gãy, nhánh cây được thêm vào để giảm tốc độ người xem chạy đi mất. Nhìn vào bức thứ 3, cây gỗ được đưa ra khỏi bức tranh và người xem bây giờ sẽ hướng theo đường mép nước để thưởng thức bức tranh.



4. Sông, suối, đường nên vào bức tranh theo hình chữ "S" hoặc chí ít thì cũng h uốn cong chữ "C". Tránh đường thẳng bằng mọi giá vì nó quá nhanh. Hãy để cho người xem "đi bộ" chầm chậm vào bức tranh
Hình 6. Dòng suối này bố cục theo chữ S, chậm chạp và lười biếng.

Hình 7. So sánh hình 6 với bức này uốn hình chữ C. Bạn sẽ thấy bức số 6 cho phép người xem đi chậm hơn và thưởng thức kỹ hơn.

Hình 8. Bố cục sai, con đường là một đường thẳng. Đường dẫn quá nhanh

Hình 9. Tốt hơn vì có khúc quanh

5. Nghệ thuật nhiu khi không cần logic. Tác động bằng hình ảnh là điu quan trọng nhất.
Hình 10. Chú ý hàng cây làm cho người ta cảm giác gió thồi từ bên phải sang bên trái. Thế nhưng hướng của mưa thì lại cho thấy gió thổi ngược lại.

6. Đặt các chủ thể quan trọng vào điểm nhấn, đừng để họ chạy lung tung và như thế họ sẽ cạnh tranh sự chú ý của người xem.
Hình 11. Tất cả người trong bức tranh này nằm trong bán kính của điểm nhấn ở góc dưới bên phải.

Hình 12. Con ngựa này đặt sai chỗ. Giá mà họa sỹ đặt nó cạnh cái ghế băng thì bố cục đã đẹp hơn.

7. Bạn có thể mời người xem tham gia vào bức tranh. Để cho người xem tự lang thang và tự tìm ra điểm thú vị, suy ngẫm, tưởng tượng.
Hình 13. Sau khúc quanh này là cái gì? Có phải là một cái hồ nước hay một thành phố? Nghệ sỹ để cho người xem tự suy tưởng

8. Chiu sâu. Nghệ sỹ có lúc cần sử dụng mặt giấy phẳng 2 chiu để tạo ảo ảnh ba chiu. Chúng ta phải làm sao cho người xem
tin những gì họ nhìn thấy là thật. Sau đây là vài mẹo nhỏ để tạo ảo ảnh 3 chiu.
* Đặt chủ thể chồng lên nhau một phần.
* Cảm giác v không gian. Màu sắc xanh hơn và nhạt hơn v phía hậu cảnh, đậm hơn v phía tin cảnh. Trong thiên nhiên không phải lúc nào cũng thế, cái cây xa vài trăm mét vẫn cứ sẫm màu như thế. Bạn phải chọn góc nhìn phù hợp và thay đổi tùy ý.
* Các thành tố càng ở xa thì càng nhỏ hơn và mờ nhạt hơn.
* Tạo ít nhất 3 lớp, tin cảnh, trung cảnh, hậu cảnh.
* Hãy xem lại hình 13. Ở tranh này có cảm giác xa gần rất rõ. Cây thông ở phía trước ngọn núi tạo cảm giác ngọn núi ở xa hơn. Màu sắc vàng ở tin cảnh ấm hơn trong khi đó hậu cảnh nhạt nhòa hơn và lạnh hơn. Bóng ở trên ngọn núi ở xa nhạt hơn và xanh hơn ở trung cảnh. Rõ ràng có 3 lớp ở bức tranh này.
Hình 14. Nhiu lớp sẽ tăng cường cảm giác xa gần nếu bạn làm tối tin cảnh.

Hình 15. Sương mù tạo cảm giác xa.

9. Sử dụng màu và độ tương phản mạnh nhất cho điểm nhấn. Ở ngoài điểm nhấn thì giảm độ tương phản để giảm sự chú ý về các điểm không quan trọng.
Hình 16: Bố cục sai. Cái cây ở bên trái quá sẫm làm giảm chú ý vào điểm nhấn.

Hình 17: Bố cục tốt hơn. Cái cây bị cắt đi và độ tương phản giảm. Người xem chú ý vào con trâu hơn.

Hình 18. Bộ quần áo sẫm màu của người đàn ông làm cho anh ta nổi bật. The dark clothes on the man readily make him stand out. Cái cửa ở góc không có nắng cũng sẫm màu nhưng xung quanh nó lại là màu trung bình, không tưong phản nên không thu hút sự chú ý. Hãy nhớ mẹo này giống như trong nhà hát người ta dùng đèn rọi chiếu vào nhân vật chính hay ca sĩ trên sàn diễn.

10. Bức tranh của bạn trông sẽ không quá rối mắt nếu bạn tạo cho người xem một chỗ nghỉ, tốt nhất là ở trước điểm nhấn. Cho người ta một ít không gian để thở.
Hình 19. Mảng tuyết trắng trước cây thông tạo một chỗ nghỉ thỏai mái.

11. Nếu được thì đưa vào tranh một ít chuyển động dọc, ngang hoặc chéo. Chỉ nên có 1 yếu tố có độ dài nhất. Đường chéo là hay nhất vì không song song với khung hình. Điu này sẽ tạo cho người xem có cảm giác v hướng.
Hình 20. Cây thông theo chiu dọc, cỏ thì theo đường chéo, đường mé nước ở xa thì nằm ngang. Chú ý: mấy cái cây thông bé giúp bỏ cảm giác có một hình tam giác xanh ở bên phải.

12. Khi đưa vào tranh những chủ thể mà bản chất là chuyển động, nếu được thì tạo cảm giác chủ thể đang chuyển động mà không đặt chủ thể vào trạng thái như là đang tạo dáng.
Hình 21. Nghệ sỹ cho thấy là con ngựa đang đi bằng cách vẽ bụi bốc lên và vẽ dáng đuôi ngựa. Không có con ngựa nào đang "bay" trong không trung cả. Khi chụp ảnh thì hay bị "bay" như thế nhưng nếu được thì nên tránh. Khi vẽ thác nước cũng vậy, đôi khi chụp ảnh thì có cảm giác "đóng băng" thác nước, cứng nhắc. Tốt hơn là vẽ hay chụp thác nước mờ vì nước chảy. Như thế truyn cảm giác chuyển động tốt hơn.

13. Nếu bạn không quyết định được bắt đầu đường dẫn vào điểm nhấn của tranh (ví dụ như một dòng sông, con đường) từ đâu, nên để ý đến quy tắc này. Hầu hết chúng ta đu đọc từ trái sang phải, vàthế đa số mắt đu có thói quen bắt đầu nhìn từ phía bên trái bức tranh.

14. "Lối vào" của tranh cũng có thể bắt đầu từ góc trên bên trái giống như một trang sách vậy.

15. Đừng bắt đầu lối vào từ góc bức tranh.
Hình 22. Đây là một bố cục tồi. Như các bạn thấy, dòng sông chạy từ góc dưới bên trái bức tranh.

Hình 23. Bằng cách làm rộng thêm hình cửa sông chúng ta đã giải quyết được vấn đ dòng sông chạy từ góc tranh. Những lỗi thường gặp và cách tránh.

16. Tránhh lặp lại hình dáng, đường thẳng, chuyển động và kích thước. Làm như thế sẽ gây ra xung đột giữa các chủ thể gần giống nhau.
Hình 24 và 25.Hãy nhìn hai bức tranh dưới đây. Hình 24 vẽ hai cái cây gần giống nhau, đáng lẽ mỗi cây phải nghiêng v một hướng khác nhau và kích thước cũng nên khác nhau. Hình 25. Hai con ngựa to bằng nhau và ở vị trí giống nhau.


17. Tránh vẽ nhóm người hay động vật có số chẵn. Trường hợp muốn vẽ thành đôi thì nên thay đổi kích thước và vị trí.
Hình 26. Bố cục sai. Hai con hươu cạnh tranh với nhau vì có vị trí, kích thước và tư thế giống nhau.

Hình 27. Bố cục này tốt hơn. Con hươu bên tay phải có tư thế và kích thước khác.

Hình 28. Bức tranh này bố cục tốt hơn nữa khi có thêm 1 con hươu nữa ở hậu cảnh.

18. Không nên vẽ các vật thể nghiêng ra phía ngoài bức tranh. Cũng không nên vẽ vật thể song song với mép tranh. Vẽ vật thể nghiêng vào phía trong.
Hình 29. Sai. Cột dây điện thoại nghiêng ra ngoài.

Hình 30. Bố cục này cũng dở. Cột điện thoại song song với vin tranh.

Hình 31. Bố cục này tốt hơn. Cái cột nghiêng vào phía trong, giữ người xem ở lại với bức tranh.

19. Tránh vẽ đường thẳng trừ khi rất ngắn. Cố gắng tạo những vật che khuất bớt đường thẳng để làm cho nó có vẽ không thẳng lắm.
Hình 32. Hầu kết các đường thẳng được che bởi hoa. Chú ý bức tường đã uốn cong.

Hình 33. Cái mái nhà cũng cong. Đòn nóc cũng phải cong theo thời gian.

20. Đừng trình bày những hình hình học như hình vuông, hình chữ nhật (cửa sổ, cửa ra vào), hình tam giác (cây thông), hình ô van hay hình tròn (cây cối, mây) dù những hình này có ở trong thực tế. Ví dụ nếu trong bức tranh có cửa sổ, tìm cách phá vỡ hình
khối đó bằng một cành cây hay một chậu hoa.
Hình 34. Sai, bóng đổ hình tam giác.

Hình 35. Như thế này tốt hơn, hình tam giác của bóng đổ đã bị phá vỡ.


21. Không  bao giờ chia bức tranh thànhh những phần bằng nhau vì bức tranh trông sẽ quá nhân tạo vàtẻ nhạt. Nếu có đường chân trời không bao giờ để nó ở giữa bức tranh.
Hình 36. Đường chân trời chạy qua chính giữa tranh.

Hình 37. Dễ coi hơn. Một phần của bầu trời đã bị xén đi.


22. Đừng chạm vào vin, điểm cuối.
Hình 38. Sai. Cái mũ của chú cao bồi này chạm vào đường vin của quả đồi ở phía hậu cảnh.

Hình 39. Tốt hơn. Bức tranh trông cân đối hơn.

Hình 40. Sai. Ngọn cây thông chạm vào mép trên của tranh. Nếu không mở rộng tranh được thì đành phải cắt bớt ngọn cây đi.

23. Hình chữ "X" trông không đẹp mắt.
Hình 41: Hai cái cây giao nhau hình chữ X

24. Đừng để cửa đóng. Hãy mời người xem vào.
Hình 42. Sai. Nghệ sỹ vẽ cửa đóng và bảo người xem đi chỗ khác chơi.

Hình 43. Tốt hơn. Người xem cảm thấy được mời mọc và hoan nghênh.

Lời khuyên: Khi vẽ khu vực tối như lối vào không có chiếu sánh, đừng dùng màu đen. Màu của bóng tối là màu tím.

25. Không cần thiết phải vẽ từng chi tiết nhỏ như hòn gạch, tảng đá, vv. trừ khi bạn thuộc trường phái siêu tả thực. Chỉ cần vẽ một phần để truyn đạt ý tưởng, sử dụng kỹ thuật ấn tượng.
Hình 44. Người xem dễ dàng nhận ra chất liệu của mái giáo đường.

Những lời khuyên giúp cải thiện các bức họa phong cảnh.
26. Vẽ các góc màu sẫm hơn và không thể hiện rõ chất liệu (texture).
Hình 45. Cả 2 góc dưới tranh đu có màu sẫm và thể hiện chất liệu mờ nhạt.

27. Khi vẽ bóng trong tranh thì thêm vào những lỗ thủng ánh sáng xuyên qua. Nếu không bóng đổ trông sẽ như được dán vào.
Hình 46

28. Không nên vẽ động vật theo hướng nằm ngang vì như thế trông sẽ bẹt như là cắt dán. Chọn hướng tạo cảm giác không gian 3 chiu.
Hình  47. Không nên.

Hình  48a và 48b. Đẹp hơn.


29. Các tòa nhà và cấu trúc nhân tạo như bê tông, gỗ trông sẽ thú vị hơn nếu bạn làm cho nó trông cũ kỹ bằng cách thể hiện bmặt của nó như vết nứt, tróc lở. Trông bức tranh sẽ như có nhiu truyện để kể hơn.
Chú ý : Chỉ cần vẽ kỹ b mặt những vật thể gần người xem. Ở xa thì chi tiết phải giảm đi.
Hình 49. Nghệ sỹ dùng kỹ thuật bút lông khô để làm cho bức tường trông cũ kỹ hơn.

30. Thêm  kịch tính cho bức tranh bằng cách thêm vào cảm xúc.
Một bức tranh phong cảnh chiu tà với bầu trời màu da cam trông sẽ thú vị hơn bầu trời xanh trung bình. Ví dụ có thể tạo cảm xúc bằng cách vẽ mưa, mặt phố ướt, gió thổi, cây cối ngả nghiêng trong gió, vv. Tất cả những chi tiết này sẽ tăng thêm giá trị của bức tranh.
Hình 50. Bố cục đgiản trong bức này trông thú vị hơn vì trời mưa và ánh mặt trời xuyên qua mây. Thậm chí có thể thấy cảnh này trông khá là huyn bí.

31. Trừ khi bạn định đặc tả theo trường phái siêu tả thực, vẽ phong cảnh với cái nhìn hơi mờ nhạt
Hình 51. Chắc chắn cảnh thực trong bức này tin cảnh sẽ có nhiu chi tiết hơn hậu cảnh. Nghệ sỹ cố ý làm mờ tin cảnh, đơn giản hóa để tập trung vào điểm nhấn.

32. Vin mờ trong hậu cảnh sẽ tăng thêm cảm giác xa gần. Chỉ nên vẽ vin nét ở tin cảnh và trong khu vực muốn nhấn.
Hình 52. Những cái cây phía sau tòa nhà này dùng kỹ thuật vẽ trên nn ướt bằng mầu nước. Kỹ thuật này làm mờ nét làm cho lá thông trông rất xa. Tin cảnh được vẽ trên giấy khô làm nét cứng, tạo cảm giác rất gần người xem.

33. Đừng tự nhiên kết thúc một phần bức tranh và chuyển đột ngột sang một phần khác.
Hình 53. Sai. Lớp cỏ sáng màu tự nhiên dừng lại khi chuyển sang khu vực bụi cây. Phần cỏ sáng màu và bụi cây có tỷ lệ bằng nhau.

Hình 54. Tốt hơn. Phía trong bụi cây vẫn có chút ánh sáng của lớp cỏ sáng màu ở phía sau chiếu xuyên qua bụi cây.

34. Thay đổi hình khối. Nếu đã có một bụi cây hình trònthì đừng nên có mây cũng hình tròn. Đỉnh núi hay ngọn cây thông trông sẽ hay hơn nếu có những đám mây tròn vây quanh.
35. Cân bằng là một yếu tố quan trọng. Không nên vẽ màu lệch giữa 4 góc tranh, sẽ tạo cảm giác mất cân bằng.
Hình 55. Sai. Phía bên tay phải quá nặng.

Hình 56. Đẹp hơn vì có sự cân bằng do bên trái có trọng lượng hơn.

Còn phần cuối của bài này v kỹ thuật trộn màu trên pallete và sử dụng bút lông mình không dịch vì có vẻ không liên quan lắm đến nhiếảnh. Mình thấy các mẹo trong này có khá nhiu cái nhiếp ảnh có thể sử dụng, ví dụ làm mờ hậu cảnh thì có thể khống chế bằng DOF.
-----------------------------------

IV-4, BỐ CỤC ẢNH
Trước khi đi vào phần này, em xin phép là có dùng ảnh của các thành viên của Forum để minh hoạ, mà chưa hỏi thì các Bác thông cảm cho! Nếu các Bác mà đưa ảnh vào để minh hoạ thì càng hay.
Một điu nữa em muốn nói là các quy tắc, định luật... chỉ giúp cho chúng ta chụp được tấm ảnh hài hoà, đúng sáng... chứ không phải là tất cả để cho ta một bức ảnh đẹp,độc đáo... Nhiu nhà nhiếp ảnh ủng hộ cho sự sáng tạo, họ ví von những quy tắc, định luật... giống như cái xe để tập đi. Khi chúng ta biết đi rồi mà lúc nào cũng khư khư bám vào nó thì chẳng khác nào người chưa biết đi vậy.
V phần này em chưa tổng hợp lại được nên trình bày theo từng bài riêng lẻ, cô đọng, mong các Bác thông cảm.

Năm công thức kinh điển của bố cục:
1.Không bao giờ đặt chủ đ vào giữa tâm bức ảnh
2.Mọi bức ảnh chỉ có một và một điểm mạnh duy nhất
3.Đường cong chữ S là một trong những thủ pháp bố cục được ưa chuộng nhất
4.Luôn luôn dẫn ánh mắt của người xem đi vào bên trong hình ảnh
5.Đường chân trời không bao giờ cắt ngang chính giữa mà luôn nằm ở một phần ba phía trên hoặc phía dưới.

Em nhờ các Bác Amin đăng minh hoạ ảnh vào nhé!
Bổ sung ví dụ v đường chân trời cắt ngang chính giữa, nhìn rất lủng củng:

Và đây là đường cong hình chữ S

Không bao giờ đặt chủ đ vào giữa tâm bức ảnh qua bức ảnh nổi tiếng của Anh Longpt (thiếu nữ đang đạp xe ý), hay Gone with the wind của Bác atkinson. Ngoài kỹ thuật lia máy hai tác giả đu đặt chủ đ v phía bên phải (ngược với hướng chuyển động cua chủ đ).
Luôn luôn dẫn ánh mắt của người xem đi vào bên trong hình ảnh thì Bác tham khảo luôn bức Sunrise. Bay bridge, San Francisco của Bác thanh. Đường dẫn để người ta ngắm cây cầu là cái bờ tối đen bên trái bức ảnh.
Thực ra chủ đ này em có ý định viết vì đọc bài của Anh TheAmateur hướng dẫn v "Định luật một phần ba". Tiện đây em cũng đăng các tài liệu để các Bác hiểu rõ nguồn gốc, sự kỳ diệu v "Tỷ lệ vàng", chính vì vậy không phải ngẫu nhiên trong hội hoạ, kiến trúc và nhiếp ảnh sử dụng nó.

Trước hết đó là khái niệm Con số Vàng
Chúng ta hãy quan tâm đến ba con số đầu tiên là 1,2 và 3 (hay được người Á Ðông chú ý đến). Ngoài số 1 là đơn vị, thường cùng để chỉ một ngôi vị chí tôn, người ta hay dùng số 2 để chỉ Ðất và số 3 để chỉ Trời. Căn nhà Việt Nam khi xưa thường cất có 3 gian, 2 chái, bao gồm có sân hoa ở giữa. Như thế có nghĩa là thuận hòa được cả Trời và Ðất. V kích thước thành hình chữ nhật, người ta thường dùng khuôn khổ cho khung cửa khi xây cất nhà, hay kích thước lá cờ biểu tượng cho quốc gia, theo tỷ số 3/2, nghĩa là nếu lấy chiu ngang là 2, thì chiu dài phải là 3 đơn vị. Hình chữ nhật mà có cạnh theo tỷ số 3/2 = 1,5 thường được coi như là một hình đẹp mắt. Chính vì vậy không phải ngẫu nhiên thẻ ATM, lá cờ các quốc gia trên thế giới hay cả khung hình của nhiu bức ảnh... có nhiu nét tương tự tỷ lệ này.
Sự thực, tỷ số lý tưởng nhất v phương diện mỹ thuật, lại là một số vô tỷ, nghĩa là không bằng tỷ số của hai số nguyên nào. Số này gọi là số vàng, biểu ký bằng mẫu tự Hy Lạp là : Ф = 1,618033... đã được biết đến và được áp dụng trong sự kiến thiết dinh thự cách đây 25 thế kỷ.

6 YẾU TỐ CĂN BẢN TRONG BỐ CỤC ẢNH:
Nếu như vẽ tranh là hoạ sỹ đưa dần vào khung toan trắng những nét cọ để tạo ra nội dung và bố cục của nó thì trong nhiếp ảnh, người ta làm công việc ngược lại. Trong bố cục ảnh, có 6 chuẩn mực để bạn dựa vào, nhưng để các tấm ảnh có hồn, thu hút và tránh nhàm chán rất cần tới sự vận dụng linh hoạt.
Cả hội hoạ và nhiếp ảnh đu là nghệ thuật truyn tải thông tin thị giác và chịu sự chi phối của những nguyên lý căn bản v cảm nhận thực thể bằng ánh sáng. Nhưng nếu hội hoạ là nghệ thuật tổng hợp thì nhiếp ảnh là kỹ thuật phân tích. Khi vẽ tranh, hoạ sỹ đưa dần vào khung toan trắng những nét cọ để tạo ra nội dung và bố cục của nó. Nhưng trong nhiếp ảnh, người ta làm công việc ngược lại…
Với bối cảnh thực có sẵn nội dung và bố cục, tay máy phải thay đổi góc nhìn, sử dụng ống kính wide hay tele, xoay trở khuôn hình để chọn lọc những yếu tố xây dựng lên bức ảnh. Tuy nhiên, dù là thêm vào hay bớt đi các mảng khối trong khuôn hình, cả hội hoạ và nhiếp ảnh đu hướng tới cách xếp đặt hiệu quả nhất để thể hiện nội dung các tác phẩm. Trong kết quả cuối cùng, ở mức độ nào đó, cả tranh vẽ và ảnh chụp đu được đánh giá bởi một chuẩn mực v bố cục.
Khi đánh giá một bức ảnh, người ta xem xét nó trên những yếu tố căn bản v nội dung, màu sắc, trạng thái và hiệu ứng quang học. Nếu bố cục được nhấn mạnh trong khi các yếu tố khác bị khoả mờ, bản thân nó có thể là chủ đ của nhiếp ảnh.
Hầu hết các yếu tố căn bản này giúp truyn tải thông tin thị giác như điểm và đường nét, hình dạng, màu sắc, chất liệu b mặt và độ tương phản đu liên quan đến bố cục bức ảnh. Người chụp ảnh dựa trên những nguyên tắc này để phát triển kỹ năng sắp xếp các đối tượng trong khuôn hình.

1. Tìm ra tiết tấu hay mô thức xếp đặt trong bối cảnh
Đó là kỹ thuật rút ra logic v vị trí, sự xếp đặt các vật thể trong khuôn hình, chọn được góc đặt máy tốt nhất phản ánh tiết tất và mô thức trên các vật thể. Kỹ thuật này rất phổ dụng đối với ảnh kiến trúc, giao thông, dây chuyn sản xuất… Việc phát hiện logic xếp đặt trong một bối cảnh lớn phụ thuộc rất nhiu vào khả năng quan sát và xâu chuỗi của tay máy. Tuy nhiên, việc lạm dụng tiết tấu, thiếu suy ngẫm và phân tích sẽ dẫn đến những bức ảnh dập khuôn nhàm chán. Việc áp dụng hiệu quả bố cục này phải đi lin với các hiệu ứng ánh sáng, tạo bóng và góc đặt máy khác thường.
Ví dụ, một hàng cột tròn đu tăm tắp và sáng rõ trong nắng trưa sẽ không thể đẹp bằng bức ảnh chúng đứng trong ánh sáng xiên thấp hơi lệch phương ống kính. Nhờ nắng tạt ngang, bóng cột sẽ đổ dài tạo một hàng cột nữa nằm dưới đất, thân của chúng sẽ được “vê” tròn lẳn vì hiệu ứng chuyển sáng tối. Nếu đặt máy thật thấp dưới chân hàng cột với ống kính góc rộng, đầu của chúng sẽ sẽ chạm vào nhau và lao vút lên trời, rất thú vị. Nhiu khi các tiết tấu lại xuất hiện cùng hiệu ứng quang học và chỉ tác động vào ống kính ở một góc nhìn nhất định, vấn đ là phải tìm tòi và sáng tạo.

2. Thể hiện được kích cỡ vật thể hoặc khoảng cách
Kỹ thuật này giúp người xem ảnh hình dung kích thước của vật thể trong khuôn hình. Sử dụng tốt phép so sánh chênh lệch v kích thước có thể nêu bật được độ lớn của đối tượng trong bức ảnh. Ví dụ, nếu muốn minh hoạ độ lớn của một con voi nên đặt chú sáo bé như hạt gạo trên lưng nó. Ngược lại, khi chụp macro một bông hoa nhỏ, người ta nhấn mạnh mức phóng đại của bức ảnh bằng một chú kiến vàng lớn như con ong chúa. Vật thể làm mẫu so sánh nên thuộc loại hình ảnh quen thuộc, dễ hình dung kích thước như con người, ôtô, que diêm, cái bút… Có thể dễ dàng nhận thấy hiệu quả của thủ pháp so sánh khi xem những thước phim hoạt hình kinh điển v người khổng lồ, tí hon. Tay máy khi đứng trước bối cảnh hoành tráng hay vật thể quá lớn, anh ta dễ bị ngợp tới mức quên mất là cần một vật thể so sánh. Kết quả là bức ảnh sẽ còn cảm xúc mà anh ta đã trải nghiệm, mọi thứ sẽ chỉ giống như cảnh trên bàn hay những món đồ chơi của trẻ con.

3. Tạo sức hút cho điểm nhấn của bức ảnh
Vùng trọng tâm hay điểm nhấn của bức ảnh được thể hiện bằng kỹ thuật tạo độ tương phản, hay đường dẫn hướng. Theo nguyên lý thị giác thì điểm tương phản nhất trong khuôn hình sẽ thu hút thị giác, vùng xẫm sẽ nặng và hút mắt hơn khoảng nhạt trắng. Mặt khác, ánh mắt người xem cũng sẽ di chuyển theo hướng chiếu của tia sáng trong khuôn hình, tức là đi từ chỗ nhạt nhất đến chỗ đậm nhất. Những đường cong, nét chéo kết thúc tại điểm nhấn sẽ dẫn ánh mắt người xem đến đó. Tuy nhiên, chúng cũng có thể gây hậu quả phân tán và khó hiểu nếu chỉ lệch hướng tới chủ đ chính.
Trong bố cục cổ điển, điểm mạnh của bức ảnh thường được đặt ở toạ độ giao nhau của đường 1/3 dọc và 1/3 ngang bức ảnh (gần 4 góc khuôn hình). Cách sắp xếp này đặc biệt phù hợp với cỡ phim 35 mm. Nhiếp ảnh hiện đại không bị lệ thuộc vào những công thức cổ điển.
Thậm chí, những tay máy cách tân còn cố tính đặt chủ đ vào những vị trí oái oăm và điu đó lại gây sự chú ý và ấn tượng v bức ảnh.
Thực ra, những tay máy này phải rất hiểu v Tỷ Lệ Vàng để có thể làm điu ngược lại và tạo nên hiệu quả thú vị. Giá trị cao nhất mà nhiếp ảnh hiện đại nhắm tới không hoàn toàn là cái đẹp, mà là cảm xúc và ấn tượng.

4. Đặc tính v cân bằng về trạng thái
Sự cân bằng trong bức ảnh sẽ quyết định trạng thái tĩnh hoặc động của nó. Nếu thủ pháp sử dụng đường chân trời nằm ngang chính giữa bức ảnh nhằm tạo nên cảm xúc tĩnh lặng, thì khi đặt nghiêng, đưa lên cao hay hạ xuống thấp sẽ cho hiệu quả động. Bức ảnh nhiu trời ít đất thì tạo cảm xúc nhẹ nhõm thanh cao. Còn khi đảo tỷ lệ này, những hiệu quả sẽ ngược lại. Mắt người xem có một đặc tính là bị thu hút theo hướng chuyển động của chủ đ. Do vậy, trong bố cục cổ điển các chuyển động phải hướng vào trong bức ảnh. Nhưng các nhiếp ảnh gia hiện đại lại không muốn người xem thấy ngay mọi thứ, họ đòi hỏi sự quan sát và suy ngẫm v thông điệp của bức ảnh, nên họ có thể không tuân thủ quy tắc này.
Sự cân bằng cũng bị chi phối bởi màu sắc, một chấm vàng tươi bên phải sẽ nặng bằng cả một mảng nhạt trắng. Cách lấy một diện tích nhỏ có sức hút mạnh để tạo ra sự cân bằng với một mảng lớn nhẹ nhõm hơn sẽ tạo ra trạng thái cân bằng động - một bố cục khá phổ biến trong nhiếp ảnh.

5. Chụm vào tản ra
Những nguyên tắc bố cục cổ điển (Tỷ Lệ Vàng):
- Đường chân trời ở 1/3 hoặc 2/3 chiu cao bức ảnh.
- Mỗi khuôn hình chỉ có một điểm mạnh, điểm này không đặt giữa ảnh mà phải ở toạ độ 1/3 rộng x 1/3 cao.
- Hướng ánh mắt người xem từ ngoài vào trong bức ảnh.
- Tận dụng nét lượn chữ S nếu có trong bối cảnh.
Việc sử dụng hình tròn hay những đường cong kín tạo nên sức hút khá mạnh và gây hiệu ứng hợp nhất - phương pháp thể hiện tốt những hiện thực đơn lẻ như bông hoa, mạng nhện… Khi được sử dụng hợp lý, bố cục này sẽ hướng sự chú ý vào giữa tâm của nó. Mục tiêu hợp nhất vào điểm mạnh còn có thể được thực hiện bởi nhiu đường dẫn hướng tới đối tượng chính (ví dụ: nút giao thông). Không cần phải là những nét dẫn thực thể, ánh mắt tập trung của các sinh vật trong khuôn hình cũng sẽ định hướng sự quan sát của người xem ảnh.
Thủ pháp bố cục phân tán thường được dùng để diễn giải những nội dung trừu tượng như: giận dỗi, làm ngơ, đa dạng, hỗn loạn… Đi lin với kỹ thuật này là ống kính góc rộng, bao quát nhiu cụm đối tượng mạnh tương đương. Ví dụ, bức hình chụp từ trên xuống một trung tâm giao dịch chứng khoán, hay một cái chợ ngoài trời đông đúc.

6. Phản ánh chiu sâu không gian
Là một thủ pháp rất hiệu quả để khắc phụ bản chất phẳng dẹt của bức ảnh. Một bố cục khéo léo có thể làm khuôn hình trở nên sâu hút, cũng có thể khiến chủ đ nổi bật hình khối trên một bối cảnh mờ nhoà. Nhiu khi một bức ảnh nét suốt từ cận cảnh tới vô cự không tạo cảm giác sâu bằng bức macro nét cạn, chính phần vật thể bị mờ lại tạo cảm giác v hình khối và chiu sâu không gian. Một bức ảnh bố cục tốt có thể bao gồm nhiu lớn không gian với các tone màu và cường độ chiếu sáng khác nhau. Kỹ thuật phổ biến là sử dụng cận cảnh làm khuôn hình, nhưng nếu không tìm được những mẫu khung đặc biệt thú vị thì bức ảnh khó mà thoát ra khỏi sự nhàm chán.


IV-5,  YẾU TỐ PHỤ TRONG BỐ CỤC
Phần trên tôi đã có nói qua v quan điểm bố trí chủ đ hay yếu tố chính của bố cục theo tỷ lệ vàng (dùng hay không dùng, áp dụng, vận dụng được hay không là do quan điểm của mỗi người sử dụng). Nhưng ngoài chủ thể ra các chủ đ phụ cũng không kém phàn quan trọng, nó là yếu tố quyết định để so sánh, để hỗ trợ tôn nên vẻ đẹp của chủ thể. Như thể hiện bông hoa thắm tươi, chúng ta thường chụp với cành, lá hay nhưng vật trang trí kèm theo... nhưng thứ đó được coi như yếu tố phụ (thực ra để rạch ròi nhiu nhà nhiếp ảnh còn phân chia thành hai loại: yếu tố phụ và bối cảnh).
Các yếu tố phụ này được chi làm 04 loại:
(1) Tin cảnh
(2) Hậu cảnh
(3) Bầu trời
(4) Đường chân trời

1. Tin cảnh:
Tin cảnh trong bức ảnh thể hiện sự gần gủi, tính phàm tục: Một cành hoa bé khi chụp phong cảnh, một khóm khoai trước chú vịt... Đôi khi ta phải dùng tin cảnh để che bớt những vật phụ khác trông không đẹp trong bức ảnh.

Kỹ tthuật để "xử lý tin cảnh" là:
- Tiến lại gần hay chúc máy, ngửa máy để lấy nhiu hay ít tin cảnh.
- Dùng ống kính góc rộng làm tăng tin cảnh hay ống kính tele làm giảm tin cảnh.
- Dùng tin cảnh để gióng khung hình cho ảnh. Chẳng thế mà các bạn có thể thấy rất nhiu ảnh dùng vòm cổng, ngưỡng cửa, cửa sổ các nhánh cây.. để gióng khu cho ảnh.
- Tạo sự tương phản giữu xa và gần thông qua đậm và nhạt, thường tin cảnh tối hậu cảnh sáng...
2. Hậu cảnh
Thực ra nếu đã xác định rõ chủ thể thì tất cả cái khác trong bức ảnh được gọi lại "hậu cảnh". Phân biệt chỉ mang tính tương đối.
Ví dụ: nếu chụp chân dung thì người đó là chủ đ chính, cây cối, nhà cửa ... phía sau là hậu cảnh. Điu tối kỵ theo quy tắc truyn thống là không được phép để chúng hoà trộn lẫn nhau, dẫn đến tình trạng cái tượng đằng sau như ngồi lên đầu người, cái cây đằng sau như mọc từ đầu người, cái bảng hiệu quảng cáo như xắp rơi xuống đầu người...

Kỹ tthuật để "xử lý hậu cảnh" là: Chiếu sáng là cách hữu hiệu khi chụp dàn dựng, bất cứ thứ gì nếu được chiếu sáng đu sẽ nhạt hơn trong vùng tối. Néu không phải lợi
dụng các nguồn sáng chiếu qua khe cửa, lỗ thủng... (vì vậy càm la bàn để biết hướng ánh sáng sẽ chẳng bao giừo thừa cả).
Chụp phong cảnh nhiu khi phải đợi mây làm xậm hậu cảnh để làm nổi bật chủ đ chính...
Canh nét cạn cũng rát phổ biến để "cắt đuôi" hậu cảnh ra khỏi chủ thể, đây chính là cách sử dụng sự tương phản giữu mờ và tỏ. Canh nét cạn bằng cách:
- Tiến gân chủ đ
- Để khẩu độ nhỏ (1; 1.4; 2; 2.8...)
- Dùng ống tele...
(Cái này tôi đã trình bày trong DOF và sẽ nói lại trong mục "Nhìn theo con mắt của máy ảnh"
Lia máy (panning) cũng là cách tạo tương phản giữa tỏ và mờ. Lia máy là cách chụp các chủ đ đang chuyển động với vận tốc tương đối ổn định. Người càm máy di chuyển máy theo sự di chuyển của chủ đ và bấm chụp. Lúc đó, chủ đ sẽ rõ nét trên một hậu cảnh mờ nhoè nhằm tạo ấn tượng di chuyển của chủ đ (cái này tôi cũng được xin phép trình bày trong mục Làm chủ tốc độ trong "Nhìn theo con mắt của máy ảnh")

---------------------------------
IV-6, ĐƯỜNG NÉT TRONG BỐ CỤC
Lại Hữu Đức ARPS, APSHK, Hon. F. APA etc... trích Ảnh Nghệ thuật tập I (Sài Gòn, 1971)
Khi đ cập đến bố cục là nói đến đường nét, vậy chúng ta thử tìm hiểu và phân tách vai trò quan trọng của đường nét trong bố cục để xây dựng tác phẩm.
Như chúng ta đã thấy, ánh sáng chiếu vào những hình thể trong vũ trụ, tạo nên đường nét. Đường nét có thể là đen, là trắng, là xám, cũng có thể to hoặc nhỏ và không bắt buộc phải liên tục. 

Tùy theo tính chất và vị trí của đường nét, tùy theo những đường vin kết hợp thành nó, nên đường nét có thể làm rung cảm tâm hồn và tạo những nguồn cảm xúc khác nhau.
Đường nét là căn bản xây dựng nội tâm của ảnh : thẳng, cong hay gẫy khúc, nó có thể cho nhìn thấy hoặc cụ-thể-hóa ra, hoặc gợi ra (trong phong cảnh không có đường nét lớn để lấy làm chính thì sự liên lạc hữu hình hoặc vô hình là đường nét chính) cho người xem.
Đưòng nét có thể là ngang, là dọc, là chéo. Đường nét có thể đặt theo những nhịp điệu có nhiu tương ứng với chúng ta, bởi vì nó bắt nguồn từ những sự biểu lộ tự nhiên và nó lược-đồ-hóa sức mạnh ấy tùy thuộc loại hình ảnh trình bày không thay đổi từ ngàn xưa.
Như vậy người ta ghép ý nghĩa trang nghiêm với đường dọc, phẳng lặng với đường ngang, sống động với đường chéo. Và đường thẳng vẫn có ý nghĩa là cứng rắn, là nghiêm khắc, đường cong diễn tả sự rung cảm và sự trọn vẹn, đường gấp diễn tả sự sống động và hỗn loạn.

Sự cân xứng của ảnh phần chính nằm trong sự tương hợp giữa những đường nét và những mảng đậm lợt. Vì cân xứng không có nghĩa là cân đối nên người ta xếp bố cục bằng hai cách:
1/ Bố cục cân đối
2/ Bố cục không cân đối

1, Bố cục cân đối
a/ Theo toán học: Cân đối là hai đối xứng ở hai hình bằng nhau, cách đu nhau hai bên một điểm hoặc một cái trục nhất định.

b/ Nghệ Thuật : V phương diện nghệ thuật, cân đối là sự phù hợp v kích thước, v tương xứng của những phần khác nhau của cơ thể và tương xứng của những phần ấy với toàn cục. Kết quả là một tổng hợp điu hòa tẻ nhạt v hình thức mà những tương xứng phối hợp lại một cách đu đặn.
Sự cân đối là căn bản của kiến trúc. Những nghệ sĩ thời cổ thường dùng nó để khai diễn những đ tài tôn giáo, những hình thái khắt khe, cứng rắn một cách trang trọng. Người ta thường dùng nó cho những ảnh v lâu đài, nhà thờ v.v...
Đường dọc là đường chế ngự trong bố cục cân đối, và bố cục cân đối là một cách bố cục đầy đặc tính trang trọng. Nó có thể giảm đi. Nếu bố cục theo hình tam giác thì nó sẽ có sự linh động phần nào trong toàn thể.
Bố cục cân đối đưa đến sự tẻ nhạt, ít gợi cảm, càng tránh được càng tốt. Tuy nhiên có khi người ta muốn nghịch ngợm, dùng cách bố cục cân đối để nhạo cổ điển.

2, Bố cục không cân đối
Bố cục không cân đối là nguồn cảm hứng phóng khoáng của nghệ sĩ. Nó không có luật lệ, mà luật lệ chỉ là tìm cảm hứng trong ký ức thẩm mỹ của tác giả.
Đối với loại bố cục này ta phải chú ý đến sự cân xứng, nó có liên hệ chặt chẽ với phép phối cảnh.
Đường nét là nn tảng của bố cục nên nhờ nó mà ta tìm cảm hứng và dùng nó làm địa bàn đi tìm trọng tâm ( cùng nghĩa là chủ điểm ) và sự cân xứng của ảnh.

Nhưng nếu khai diễn sắc thái của đường nét, ta sẽ thấy bố cục của cách bố cục không cân đối. Trong lãnh vực đó người nghệ sĩ sẽ để cho tùy theo tâm hồn hướng dẫn bởi vì những đường tạo ra trong lúc cảm hứng sẽ dùng làm căn bản cho sự xây dựng đ tài mà mình muốn và gợi ý ra những trạng thái nó đưa đến bố cục chót.
Đường nét là yếu tố sáng tác của nghệ sĩ, nhưng khi không đạt được sự gợi cảm, thì dùng đường nét chỉ là đường nét mà không là nghệ thuật.
Có nhiu cách bố cục, nhưng có một cách giản dị là bố cục theo mẫu chữ cái.
Mỗi một chữ theo bản thể của nó là một bố cục đồ bản trên một diện tích trắng hay là trong không gian. Có một số chữ theo với bố cục đồ bản trội hơn những chữ khác. Nhưng phần nhiu những chữ được áp dụng là những chữ giản dị trong sự không cân đối của nó : G, Z, J, C, S, U, L, I, v.v...

Trong bố cục không cân đối, nên tránh để chân trời chia ảnh ra làm hai phần bằng nhau, phần trời và phần đất đu nhau sẽ không làm cho ta chú ý đến phần nào và mắt cứ đưa từ phần này qua phần khác. (Trong một vài trường hợp cũng có thể để chân trời ở giữa tùy theo sự suy diễn của tác giả.)

Trong phong cảnh để chân trời ở 1/3 trên hoặc ở 1/3 dưới tùy theo tác giả muốn đặt phần quan trọng diễn tả ở phần trên hay phần dưới: như muốn tả v trời, v mây thì để chân trời ở 1/3 dưới, còn nếu muốn nhấn mạnh v cảnh mặt nước, cảnh trên mặt đất thì để đường chân trời ở 1/3 trên.

3, Sự gợi cảm bằng đường nét
a/ Sự phù hợp giữa đường nét và tâm hồn :
Ta phải tập nhìn ra đường nét ngay lúc đóng khung cho ảnh để chụp để có thể áp dụng những quy tắc bố cục. Có bốn loại đường nét thường dùng trong bố cục :
- Đường ngang
- Đường dọc
- Đường chéo
- Đường cong
Những loại đường này có thể dùng riêng biệt hoặc phối hợp tùy theo loại và tùy theo chủ đ của ảnh.
Làm sao những đường nét chỉ có hình thức trừu tượng mà lại có mãnh lực rung cảm?
Nếu chúng ta nghiên cứu một số những tác phẩm hội họa thì ta thấy bố cục của những họa sĩ danh tiếng thường đặt căn bản trên vài hình thức kỷ-hà-học. Không phải chỉ có hội họa mà còn cái gì do người tạo ra đu tìm đến hình thức sắp xếp của Kỷ-hà-học vì nhãn quan của người ta đã bị giáo dục theo cái cân xứng sắp xếp đó, vô tình chúng ta đã tìm những đường mạnh của bố cục để căn cứ vào đó mà suy tưởng và cảm xúc.
Bố cục của vũ trụ đặt căn bản trên hình thức kỷ-hà-học nên làm cho cảm giác chúng ta bị những hình thức kỷ hà ăn sâu và chi phối. Thí dụ khi nói đến kim-tự-tháp Ai-Cập là ta nghĩ ngay đến hình chóp bốn góc, khi nói đến nhà thờ ta nghĩ ngay đến tháp chuông cao vút với vẻ uy nghi.
Như vậy là có sự liên quan chặt chẽ giữa sự xây dựng đường nét của ảnh với sự  truyn cảm của tâm hồn. Nếu ta chú ý đến sự phù hợp đó ta sẽ kiểm điểm được bố cục của ta.

b/ Ngôn ngữ rung cảm của đường nét :
Ta nhận thấy những loại đường nét gợi cho trí óc chúng ta cái cảm tưởng khá rõ ràng để nhận định cái ý nghĩa riêng biệt của nó. Cũng đôi khi cái cảm tưởng đó vượt khỏi tầm phân tách của ta.
Những sự phù hợp sẵn có giữa đường nét và cảm giác đã được nghiên cứu kỹ càng và được dùng cho bộ môn kiến trúc và trang trí, thì người nhiếp ảnh chúng ta cũng có thể áp dụng nó được.
Như vậy ta có thể khái niệm rằng:
đường thẳng có nghĩa riêng là phù hợp với nghị lực và bn bỉ biểu lộ sự cương quyết mà đường cong không có được , vì nó chỉ có thể gợi cho ta ý mm dẻo, yếu đuối và kết tụ. Đường cong cũng thuận cho cách gợi ra đu đặn, quý phái mà khi ngắm đường gẫy khúc không thể có được.
Đường gẫy khúc khi cứ kéo dài mãi thì với sự chập chờn và run rẩy của nó cho ta cảm
tưởng linh động. Nhưng đường nét lại còn cho ta nhiu cảm tưởng đặc biệt tùy theo vị trí của nó và cách xếp đặt.

Ai lại không biết là :
đường ngang gợi cảm giác bình thản, buồn bã biểu lộ sự lâu dài. Trái lại đường dọc gợi cho cảm giác sôi nổi và phát sinh ra cảm tưởng trang nghiêm, cao quý. Chúng ta chợt có những cảm giác lạ khi ta ngắm đường ngang mặt biển trải rộng mênh mông hầu như vô tận trước tầm mắt chúng ta, hay khi ngắm cây tháp cao vút của ngôi giáo đường, ta thấy lân lâng lên mãi như dễ đụng tới từng mây. Những cảm giác đó tăng độ lực và phát hiện với những đường lập đi lập lại và giảm bới đi khi có những đường nghịch với nó.
Góc cạnh là do sự gặp nhau của hai đường hội tụ mà thành và gợi cho những cảm giác do đường nghiêng nghiêng của cạnh.
Góc cạnh càng thu hẹp thì cảm tưởng càng nhiu và giống như cảm tưởng phát sinh bởi cái ngắn của đường dọc.
Góc cạnh càng mở rộng cảm giác có thể gần gũi đến lẫn lộn với cái ngắn của đường ngang.
Như thế những đường của hình chóp và hình tam giác cho ta ý niệm lạ, lâu dài,, bn bỉ, vững vàng. Tùy theo hình dáng cân xứng của hình tam giác mà ta sẽ thấy hợp với đường ngang hay với đường dọc: hình tam giác cạnh dưới (đáy) hẹp và mỏng mảnh sẽ thoảng thấy như đường dọc. Hình tam giác cạnh dưới (đáy) rộng sẽ thấy như đường ngang.
Hình tam giác gợi cảm giác vững chắc và sống động mà khi thêm vào đó những đường chéo sẽ cho cảm tưởng hoạt động và nhịp nhàng.
Đường hội tụ cũng có thể gợi cho ta sự thoát ra, sự vô tận. Tùy theo vị trí của điểm tụ mà những đường đó cho ta cảm tưởng đi lên hay cảm tưởng v chiu sâu.
Đường chéo gợi sự hoạt động, tốc độ. Nếu bắt chéo nhau, nó biểu lộ sự lẫn lộn, sự không thăng bằng, sự hằng hà sa số. Nếu nó vượt khỏi một điểm thì đó là phóng ra, là tia ra, là đụng chạm và là bạo hành. Nếu nó được phân chia đu đặn, nó cho ta cảm giác vững vàng.
Đường cong cũng không có được tính chất rõ ràng như đường thẳng. Ta cũng thấy những đường cong rất mỹ miu hấp dẫn như trong thế giới thảo mộc, trong thế giới động vật lúc còn nhỏ và nó mất dần đi khi cằn cỗi già nua, và cũng như thấy đường cong đậm tính chất uy nghi gần nghĩa điu hòa khi nó mô tả đạn đạo vòng cầu.
Đường cong dùng để nối lin những yếu tố trong bố cục và ráp lại những phần trong bố cục. Vì sự quan trọng của nó nên trong nhiu trường hợp nếu thiếu nó thì bố cục không thành.

-----------------------------------------


VI-7, BỐ CỤC VÀ SÁNG TẠO
Một đ tài tưởng như đơn giản mà rất phức tạp cũng như không thể định dạng thành tiêu chuẩn thế nào là một bố cục đẹp. Đơn giản vì nhiếp ảnh là một bộ môn nghệ thuật không ngừng phát triển và những gì chúng ta "nghĩ rằng" là "tiêu chuẩn" của ngày hôm này thì rất có thể ngày mai đã lại là quá khứ.

Như NTL đã đ cập tới trong mục Chụp Ảnh Đẹp cùng Bạn thì luật bố cục 1/3 hoàn toàn chỉ là bước căn bản cho ta khái niệm thế nào là một bức ảnh cân đối mà thôi. Vậy thì bố cục của nghệ thuật nhiếp ảnh nằm ở đâu?
Để có thể hiểu được điu này thì đầu tiên ta cần phải thống nhất được với nhau thế nào là nghệ thuật trong nhiếp ảnh? Nhiếp ảnh không chỉ đơn thuần để ghi lại một khoảnh khắc nào đó trong cuộc sống bởi vì như thế ngay sau giây phút bạn bấm máy thì tấm ảnh ấy đã thuộc v quá khứ, hay nói một cách khác: hình ảnh đã chết. n nữa với các kỹ thuật tiên tiến hiện tại thì việc ghi lại một hình ảnh không còn là đặc quyn của các nhiếp ảnh gia nữa mà với bất kỳ một thiết bị điện tử nào bạn cũng có thể ghi chép lại cuộc sống một cách đơn giản và nhanh chóng. Ở đây NTL dùng từ "ghi chép" để phân biệt với "nghệ thuật" trong nhiếp ảnh. Những bố cục hoàn chỉnh, hình ảnh sắc nét, mầu sắc bão hoà...đó là những tấm ảnh đẹp - những post card mà bạn có thể mua ở bất kỳ đâu trên đường du lịch. Nhưng đó lại không phải là ảnh nghệ thuật.
Giống như hội hoạ, nghệ thuật trong nhiếp ảnh có thể được hiểu như một cách nhìn nhận v thế giới xung quanh một cách sáng tạo và độc đáo, là cách tuyên bố v một hướng sáng tạo mới của cá nhân hay của một tập thể, một cách hướng con người ta tới cái đẹp hoàn mỹ của tâm hồn, một cách phản ánh lại cuộc sống sinh động nhất. Đó là những suy nghĩ của riêng cá nhân tôi. Nghệ thuật trong nhiếp ảnh là nghệ thuật của những xúc cảm trong khoảnh khắc. Ta không thể nào tìm cách giữ lại một sự việc đang chuyển động mãnh liệt, điu ấy là vô ích, nhưng nhiếp ảnh có thể giúp ta giữ lại những cảm xúc tràn đầy sự sống. Những khoảnh khắc bất tử.

Vậy thì bố cục trong nhiếp ảnh thế nào là nghệ thuật?
NTL xin được mạnh dạn trả lời rằng không có bố cục tiêu chuẩn trong nhiếp ảnh. Nếu bạn chụp ảnh mà chỉ nhăm nhăm tìm cách ép buộc sự vật vào trong một khuôn hình định kiến thì có nghĩa rằng bạn đang bắt sự vật tồn tại theo cách của bạn chứ không tự nhiên như nó vốn có. Để có thể sáng tạo bạn hãy nhìn sự vật như tồn tại của nó, hãy tự đặt mình vào trung tâm của sự vật và nhìn lại chính mình. Bạn đang nói với tôi v những đường nét chủ đạo, v cách dẫn dụ điểm nhìn, v sự chiu động trong tấm ảnh...bạn không h sai nhưng nếu ta chỉ "nhìn" thấy những điu ấy mà thôi thì có nghĩa là ta mới chỉ nhìn thấy hình thức của nghệ thuật. Mà nghệ thuật lại là nội dung bên trong của hình thức.
Bạn chụp một tấm ảnh khoả thân. Người mẫu đẹp và những đường nét tuyệt vời được khai thác tối đa, được tôn lên bởi ánh sáng...điu ấy chưa phải là tât cả nếu như người mẫu chỉ còn là những phân mảnh của ánh sáng trong tấm ảnh của bạn. Ta cần cảm thấy được sức sống trong ấy, ta cần cảm thấy sự khát khao v cái đẹp. Điu ấy thì riêng bố cục chưa làm được.
Để có thể sáng tác nghệ thuật thật sự bạn cần học chắc những kỹ thuật căn bản rồi quên chúng đi trong khoảnh khắc bấm máy.
Hãy để cho chính tâm hồn và trái tim của bạn mách bảo. Chỉ có khoảnh khắc là bất tử người nghệ sĩ là hư không. Nếu bạn xem các tác phẩm nhiếp ảnh của các nhiếp ảnh gia lừng danh thế giới thì sẽ thấy rằng bố cục trong những tấm ảnh nổi tiếng thường lại rất tự do. Thế nhưng điu mà chúng ta có thể nhận ra là sự xao xuyến trước một cái đẹp vô cùng của nghệ thuật, của chính tâm hồn mình.
Bạn muốn cảm nhận được cái đẹp bên trong thì hãy tạm quên cái tôi của mình đi chốc lát, tạm quên những định kiến của xã hội đi chốc lát. Kỹ thuật là cứu cánh nhưng nghệ thuật mới đích thực là có cánh. Bố cục trong nhiếp ảnh nghệ thuật là không có bố cục. Vậy thôi.
Le Baiser, Bordighera 1982
© Helmut Newton
---------------------------------


IV-8, CÁC YẾU TỐ HÌNH HỌA CỦA HÌNH ẢNH
Công tác nhiếp ảnh, tác giả PIERRE MONTEL, nhà xuất bản Librairie Larousse Publications, Montel 1972
Trong những chương trên đây, chúng tôi mong rằng đã không để lộ sở thích riêng của mình đối với cỡ máy ảnh này hay cỡ ảnh kia, đối với nhãn hiệu máy ảnh này hay nhã hiệu máy ảnh kia. Thực vậy, chúng tôi muốn chứng tỏ rằng, mặc dù máy ảnh có nhiu khả năng và nhiu khâu tự động, song nó chỉ là một cái máy mà ta phải học cách sử dụng nó, một cái máy vô tri vô giác, tự nó không có khả năng nhìn và chọn lựa.
Yếu tố có ý nghĩa trong một bức ảnh, cố nhiên không phải là chiếc máy ảnh đã chụp ra bức ảnh đó mà là nhà nhiếp ảnh đã chụp nó. Nhà nhiếp ảnh giỏi không phải là người có chiếc máy ảnh tốt nhất, đắt tin nhất, mà là người chụp được những bức ảnh tốt nhất! ta có thể lấy một ví dụ:
Một trong những nhà nhiếp ảnh nổi tiếng một cách xứng đáng là Henri Cartier-Bresson. Như chính ông thừa nhận, nhà nhiếp ảnh Pháp này thường sử dụng một chiếc Leica "cổ lỗ sĩ", với ống kính tiêu cự trung bình, chụp phim đen trắng, và thường chụp với tốc độ 1/125 giây! Chúng ta có thể tin rằng Henri Cartier-Bresson rất có khả năng sử dụng một chiếc máy rất phức tạp hoặc trái lại rất đơn giản mà vẫn có được những bức ảnh rất tốt...
...Yếu tố tạo nên giá trị của những hình ảnh của nhà nghệ sĩ này - cũng như của những nhà nhiếp ảnh lớn khác - là một điu khó định nghĩa. Nghệ thuật bản thân nó không thể viết ra thành công thức. Ở người nghệ sĩ, việc thể hiện là tự phát và thuộc v bản năng, nhiu khi sử dụng đến tình cảm nhiu hơn là đến tri thức. Vì vậy, rất khó- nếu không phải là không thể-biết ngay trước được tại sao và vì sao hình ảnh này lại có tính chất nghệ thuật còn hình ảnh kia thì không...
Tuy nhiên chúng ta vẫn có thể rút ra một số nhận xét:
Ảnh đạt và ảnh tốt
Hai từ ngữ này không giống nhau.
- Ảnh đạt là một bức ảnh rõ nét, nhìn thấy rõ. Tất cả chỉ là như vậy. bất kỳ ai, dùng một chiếc máy ảnh loại phổ biến bán ngoài thị trường, đu có thể chụp đạt tất cả mọi kiểu ảnh.
- Còn một bức ảnh tốt thì lại khác. Ta chú ý đến một bức ảnh tốt vì nó liên quan đến ta: nó đã chộp được giây phút quan trọng, chộp được một vẻ mặt thoáng qua, một cử chỉ có ý nghĩa. Hoặc là nó thể hiện bằng một vẻ dễ nhìn hoặc khác thường, một con người, một cảnh vật, một hình thái của thiên nhiên. Hoặc nó gợi lên những mối liên quan tinh vi hình như được thiết lập giữa những yếu tố trong thiên nhiên hoặc những cảnh huống trong cuộc đời, hay cuối cùng nó đem đến cho ta những tin tức mới v một vũ trụ mà chúng ta không biết rõ. Chỉ ra, thông báo, giảng dạy, gợi lên; đó là một vài trong số nhiu tính chất của một bức ảnh tốt.

1. Đối tượng và cách đ cập đến đối tượng
Trong nhiếp ảnh, tính chất của đối tượng hầu như không có ý nghĩa gì quan trọng. Một cảnh vật hết sức tầm thường, một khuôn mặt của một người khách qua đường, một con vật, một thân cây, thậm chí một viên sỏi nữa, mang trong lòng nó nhiu khả năng chụp được những bức ảnh tốt chẳng kém gì những đối tượng thoạt nhìn chúng ta có thể cho là "ăn ảnh" hơn (những người phụ nữ xinh đẹp, những chú mèo con, thiên nga bơi trên hồ, cảnh hoàng hôn, v.v...). Bằng chứng không thiếu: những nhà nhiếp ảnh lớn như Cartier-Bresson, Denis Brihat, Jean Dieuzaide, và nhiu người khác nữa, đu có thể sáng tạo được những hình ảnh kỳ diệu từ những đ tài bản thân chúng có vẻ rất tầm thường-một khu chợ ở Paris, một chiếc lá rơi, ánh nước trên mặt hồ... Vậy thì, đối tượng chụp không là cái gì cả, hoặc là chẳng có giá trị bao nhiêu. Toàn bộ giá trị là ở cách ta nhìn đối tượng đó, cách chụp đối tượng đó...
Trước hết hãy học cách nhìn! Cái có thể làm cho một bức ảnh có giá trị trước hết là nội dung gợi cảm của nó, sức mạnh biểu hiện của nó.
Xu hướng rất thông thường ở người mới cầm máy là muốn đưa vào trong khuông hình càng nhiu thứ càng tốt. Người mới vào nghchụp đó muốn đưa vào trong một kiểu ảnh toàn bộ gia đình đứng trước toàn bộ khung cảnh. Đó đúng là cách thể hiện một bức ảnh vô giá trị. Kích thước nhỏ bé, tủn mủn của mỗi đối tượng, chi tiết quá nhiu khiến cho con mắt người xem bị lạc, khiến cho hình ảnh trở nên rối và có vẻ như ta đã được thấy rất nhiu lần ở đâu rồi.
Trước một đối tượng như vậy, ta phải biết cách chọn: Người hay cảnh? Nếu chọn người, thì ta chụp gần lại, khuôn hình đầy hơn để có thể nhận ra đường nét và cảm xúc trên nét mặt. Cảnh vật sẽ đóng vai trò nn, đằng sau những bức "chân dung". Nếu ta chọn cảnh, thì phải cố gắng làm sao thể hiện được những đường nét tế nhị và giàu giá trị biểu hiện của phong cảnh, làm phân biệt các lớp khác nhau trong ảnh, làm nổi lên vẻ đẹp của ánh sáng ngược, v.v... Nếu như có người trong ảnh thì người chỉ là những cái chấm nhỏ xíu ở đằng xa, đóng vai trò "điểm đối v thị giác": con người trước thiên nhiên.
Biết chọn lựa... là một cách khác để bày tỏ cùng một ý nghĩ, là vấn đ v sự thống nhất của đối tượng chụp. Trong nhiếp ảnh cũng như trong mọi phương tiện biểu hiện khác, ta không được "đ cập" đến nhiu chủ đ trong một hình ảnh. Điu đó không có nghĩa là nhà nhiếp ảnh chỉ được chụp một người, một vật hoặc một hành động duy nhất mà thôi. Mà là phải tôn trọng một sự phân chia thứ bậc nào đó giữa các yếu tố tạo nên ảnh: Các yếu tố phụ có vai trò làm nổi bật yếu tố chính, chứ không được làm phân tán con mắt khỏi đối tượng chính.
Tất cả các yếu tố trong bức ảnh phải tham dự vào cùng một cảnh tượng hoặc cùng một hành động.

2. Giây phút chụp
Khi chụp một con người, một sinh vật hoặc một vật động, đặc điểm cơ bản là giây phút chụp mà Cartier-Bresson gọi là giây phút quyết định.
Động tác của mọi sinh vật đu qua một giây phút gọi là điểm tột đỉnh, điển hình cho toàn bộ hành động diễn ra trước và sau điểm tột đỉnh đó. Ví dụ, ta phải chụp người nhảy cao đúng vào lúc người ấy vượt qua xà ngang...Đối với những động tác phức tạp, của nhiu người cũng vậy. Ví dụ, chụp hàng nghìn bộ mặt trên sân vận động đu cùng hướng v một phía, hàng trăm cánh tay chĩa v một nơi. Chụp quá sớm hoặc quá muộn một chút, hình ảnh sẽ mất hầu như hết ý nghĩa của nó.
Không phải chỉ ở chụp phóng sự hoặc chụp chân dung giây phút chụp mới quan trọng, mà cả chụp phong cảnh cũng vậy. Giây phút tốt nhất khi chụp một phong cảnh là khi mặt trời rọi tia nắng qua các dải mây, làm mọi vật tràn ngập một thứ ánh sáng nhẹ nhàng, làm đồi núi và cánh đồng nổi lên những hình dáng đặc biệt của chúng. Chọn giây phút bấm máy không phải chỉ là vấn đ may rủi, mà là một vấn đkiên nhẫn và phương pháp.
Nụ hôn- tác giả: Robert Doisneau
Sự thành công của một bức ảnh nhiu khi là do người chụp dự kiến được trước sự kiện. Đó như thể là một "giác quan thứ 6" ở các nhà chụp chân dung và phóng sự lớn. Giây phút ấy không thể do ta tạo ra. Những câu như: "Cẩn thận! Đứng yên nhé! Chụp đây này..." chỉ làm xuất hiện trên đối tượng chụp một nụ cười cứng đờ. Cuộc sống không dừng lại, nhà nhiếp ảnh phải biết chộp lấy cuộc sống đúng lúc.

3. Khung hình
Khuôn hình là chọn một cái khuônchứa đựng đối tượng trong đó. Việc khuôn hình hầu hết được tiến hành trong khung ngắm, trước khi bấm máy. Nói rằng cứ chụp đi rồi sau đó "khuôn hình lại" khi phóng ảnh là sai. Nếu ta chụp phim dương để chiếu lên màn ảnh thì không thể nói đến chuyện khuôn hình lại một mẩu phim 24x36mm. Còn khuôn hình khi phóng ảnh từ phim âm ra, nghười chụp nghiệp dư hiểu ngh hoặc nghười chuyên nghiệp đu biết rõ rằng b mặt của một miếng phim không phải bao giờ cũng thừa thãi cho việc đặt đối tượng vào trong đó để rồi ta có thể cắt xén nó đi. Vả lại, một cỡ ảnh nhất định nếu phóng từ một diện tích trên phim càng nhỏ bao nhiêu thì chất lượng hình ảnh sẽ giảm đi bấy nhiêu, v mặt nổi hạt và độ sắc nét. Ngoài ra, ngày nay việc in phóng ảnh mhiu khi thực hiện bằng máy in tự động, không thể khuôn hình lại "một cách khôn ngoan được" (Lưu ý: tài liệu này được biên soạn từ những năm 70 của thế kỷ trước, vì vậy nó có thể không hoàn toàn đúng với ngày nay vì ta có thể scan phim âm bản rồi chỉnh sửa trên PC trước khi in, song ý nghĩa cơ bản của việc khuôn hình thì không sai- NH).
Trăng lên-tác giả: Ansel Adams
Do vậy, đối với một nhà nhiếp ảnh giỏi thì, khuôn hình tức là phải đặt đối tượng một cách thích đáng vào trong khuôn ảnh ngay khi chụp.
Bất luận đối tượng chính có kích thước như thế nào, ta có thể có nhiu cách khuôn hình: từ việc khuôn hình toàn cảnh đến cận cảnh và đặc tả. Thực vậy, trong nhiếp ảnh cũng như trong điện ảnh, ta có thể nói đến các lớp cảnh của một bức ảnh.
- Ảnh toàn cảnh là ảnh chụp đối tượng ở giữa môi trường xung quanh. Ví dụ, toà lâu đài nằm giữa khung cảnh của nó, toàn cảnh một hải cảng v.v...
- Ảnh trung cảnh là bức ảnh được khuông hình sát hơn. Nó nhấn mạnh đến chủ đ chính, và không để cho môi trường xung quanh chiếm một vị trí lớn.
- Ảnh cận cảnh là ảnh chứa đựng phần chủ yếu của đối tượng không đưa vào ảnh một cách đáng kể môi trường xung quanh. Ví dụ: ảnh chụp em bé nằm trong nôi.
- Ảnh đặc tả là ảnh chỉ chụp một phần có ý nghĩa các đối tượng: khuôn mặt, bàn tay, cánh hoa v.v... Nó nhấn mạnh đến vẻ biểu hiện, kết cấu b mặt, chi tiết của đối tượng. Chụp cận cảnh làm cho hình ảnh có một sức mạnh biểu hiện đặc biệt, nhiu khi độc lập đối với bản thân đối tượng. Thể loại chụp đặc tả được các nhà nhiếp ảnh hiện đại rất ưa thích, bởi vì nó buộc ta phải xem xét một khía cạnh của sự vật mà con mắt của ta ít phân tích. Rõ ràng là một vết nứt trên một bức tường khi chụp đặc tả, không còn là một bức tường hoặc một vết nứt mà là một đường nét trừu tượng gợi cho ta một cái gì khác hẳn.
Tetons and The Snake Rivers - Adams Ansel
Khi có thể được, ta nên chụp cùng một đối tượng hai ba kiểu nhưng khuôn hình một cách khác nhau.
Ảnh toàn cảnh xác định khung cảnh chung. Ảnh trung cảnh cho biết rõ thêm v hình dáng hoặc chức năng. Ảnh đặc tả bộc lộ cho thấy cơ cấu bên trong. Thể loại này rất cần thiết khi ta muốn chụp một đối tượng thành các trường đoạn để giới thiệu trong một buổi chiếu phim đèn chiếu có thuyết minh...
Chúng ta đã biết rằng muốn chuyển từ toàn cảnh sang đặc tả, có thể dùng hai phương pháp:
- Đến gần đối tượng;
- Dùng ống kính có tiêu cự dài hơn mà không phải thay đổi điểm nhìn (vị trí đặt máy ảnh).
Dùng phương pháp thứ nhất hay thứ hai sẽ cho ta những kết quả rất khác nhau.

4. Điểm nhìn
Điểm nhìn là vị trí mắt người quan sát hoặc vị trí của ống kính máy ảnh: khi bấm máy thì mắt người quan sát và ống kính máy ảnh nhập làm một.

Điểm nhìn là một khái niệm cơ bản trong nhiếp ảnh, bởi vì riêng mình nó quyết định phối cảnh của đối tượng, tức là "cảnh tượng của các yếu tố khác nhau trong bức tranh như khi ta nhìn bức tranh ấy khi lùi dần ra xa". Nếu như không di chuyển máy ảnh, ta thay ống kính thường bằng một ống kính tiêu cự dài, ta thấy trong khung ngắm phản quang mà ta đã thay đổi độ lớn của hình ảnh và thị trường thu được vào trong ống kính. Tuy nhiên, ta không thay đổi gì hết quan hệ giữa các diện khác nhau của đối tượng, lẫn sự hội tụ tự nhiên của các đường song song, tức là ta không thay đổi phối cảnh.
Trái lại, khi ta di chuyển máy v phía trước hay phía sau, hoặc sang bên trái hay sang bên phải, đưa lên cao hay hạ xuống thấp, ta sẽ thay đổi quan hệ giữa các lớp của đối tượng từ tin cảnh đến hậu cảnh.
+ Phối cảnh chỉ phụ thuộc vào điểm nhìn.
Chúng ta có thể nêu lên một số nhận xét khái quát, rất dễ hiểu, rút ra từ qui luật phối cảnh.
- Điểm nhìn thấp (hoặc rất thấp) sẽ làm cho các lớp sít lại gần nhau, làm cho các vật nhích lại gần nhau, như thể chồng lên nhau. Nó làm tôn chiu cao của những vật thể ở tin cảnh, nổi bật lên bối cảnh hoặc lên nn trời. Nó hạ thấp đường chân trời.
- Điểm nhìn cao (hoặc rất cao) sẽ tách rời và thay đổi các lớp và hình như làm cho các đối tượng tách rời nhau; nó làm giảm chiu cao của các đối tượng nằm ở tin cảnh, nó nâng cao đường chân trời.
- Điểm nhìn trung bình là điểm nhìn ở ngang tầm con mắt ta.
Vị trí của điểm nhìn xác định điểm biến của mọi đường nằm ngang của đối tượng song song với nhau. Tất cả những đường nằm ngang song song với trục quang (của con mắt hay của ống kính) đu hội tụ v một điểm duy nhất nằm trên đường chân trời, gọi là điểm biến chính.
Canyon: Broadway and Exchange Place. Tác giả: Berenice Abbott
Rất nhiu khi, việc dùng điểm nhìn cao hoặc thấp buộc ta phải nghiêng máy ảnh hoặc chúc xuống dưới hoặc chĩa lên trên. Khi ấy, ta phải nhớ rằng việc chúc máy đó tất yếu sẽ làm cho các đường thẳng đứng (nếu đối tượng có) hội tụ lại. Sự hội tụ của các đường thẳng đứng làm cho hình ảnh của một toà nhà trông như thể một đoạn của kim tự tháp vút lên trên. Hiện tượng đó có thể chủ ý muốn có hoặc có thể không chấp nhận được tuỳ theo mục đích của bức ảnh. Điu ta cần phải biết trong mọi trường hợp là:
- Nghiêng máy sẽ tự động làm cho các đường thẳng đứng trong ảnh bị hội tụ.
- Sự hội tụ đó có thể tránh được bằng cách dùng một số phụ tùng hoặc một số biện pháp đặc biêt.
+ Muốn cho các đường thẳng đứng của đối tượng song song với nhau trên ảnh, điu kiện cần và đủ là phim (với máy KTS chắc là b mặt của sensor -NH) phải thật song song với đối tượng chụp.
Nhưng điểm nhìn lại thay đổi tuỳ theo khoảng cách từ đối tượng đến máy ảnh. Đối tượng càng xa (Chụp toàn cảnh) thì kích thước của nó có vẻ càng nhỏ; khi ta nhích lại gần đối tượng chính thì ta làm cho đối tượng ấy to lên trong ảnh. Nếu đối tượng đặt trước một hậu cảnh ở tận vô cực, khi nhích lại gần, ta sẽ làm cho làm cho tin cảnh to lên mà không thay đổi một cách đáng kể kích thước của hậu cảnh.
Nói một cách tổng quát, độ lớn tương đối giữa các lớp cảnh khác nhau chỉ phu thuộc vào điểm nhìn mà thôi. Ta cho tin cảnh có kích thước như thế nào cố nhiên là do ý đồ của ta. Điểm nhìn gần sẽ làm cho nổi bật chất liệu và chi tiết của tin cảnh và làm cho hậu cảnh giữ vai trò phụ là khung cảnh. Trái lại, điểm nhìn xa làm cho các lớp cảnh trong hình ảnh ở vào tỷ lệ tương đối mà ta quen nhìn.
Đối tượng chính hoà hợp với các yếu tố khác của hình ảnh, và muốn cho nó nổi bật lên thực sự làm đối tượng "chính" thì ta phải đặt nó ở vào một vị trí đặc biệt trong hình. Đó là việc bố cục.
Điểm nhìn và thị trường thu vào trong ống kính
"Phối cảnh chỉ phụ thuộc vào điểm nhìn". Khi chúng tôi nhắc lại nguyên tắc cơ bản đó, chúng tôi đoán trước câu hỏi mà người ta có thể vặn lại. Người ta sẽ nói rằng khi ta dùng ống kính tê-lê thì ảnh chụp được khác hẳn với khi thay bằng ống kính góc rộng. Điu đó hoàn toàn đúng, và chúng tôi cũng không phủ nhận. Trước hết, ảnh của đối tượng được ống kính tê-lê khuếch đại lớn hơn so với ảnh tạo ra bằng ống kính thường hoặc ống kính góc rộng. Mặt khác, những lớp trong ảnh thu được bằng ống kính tê-lê có vẻ chồng cưỡi lên nhau và có độ lớn gần bằng nhau, trong khi ảnh thu được bằng ống kính góc rộng thì các lớp đó khác hẳn nhau.
Tuy nhiên, ta hãy nhìn kỹ hai bức ảnh chụp bằng hai ống kính đó ở cùng một điểm nhìn, ta sẽ thấy chúng có một phần giống nhau, nằm ở giữa bức ảnh chụp bằng ống kính góc rộng, phần có góc bao quát tương đương với góc mở của ống kính tê-lê. Phần đó có hình dáng giống hệt nhau ở cả hai bức ảnh, chỉ khác nhau v kích thước. Nếu ta lấy phần ở giữa đó trong bức ảnh chụp bằng ống kính góc rộng rồi đem phóng to ra và để cạnh bức ảnh chụp bằng ống kính tê-lê, ta thấy hai bức ảnh giống như in, trừ có điu bức ảnh phóng to thì hạt to hơn mà thôi...
Như vậy, cái vẻ "khác nhau" giữa bức ảnh thu được bằng ống kính tê-lê và bức ảnh thu được bằng ống kính góc rộng chỉ là do góc bao quát của hai ống kính không như nhau.
Trong thực tế, điu càng làm tăng sự khác nhau giữa ống kính tê-lê và ống kính góc rộng đối với con mắt ta là ở chỗ ống kính này làm cho hình ảnh to hơn to hơn ở ống kính kia rất nhiu, do đó khi dùng hai loại ống kính, ta bất giác chọn hai điểm nhìn rất khác nhau. Ví dụ, giữa ống kính tê-lê 135 mm và ống kính góc rộng 35 mm, thì bức ảnh thu được bằng ống kính thứ nhất gấp 4 lần hình ảnh thu được bằng ống kính thứ hai.
Khi chụp một đối tượng nào đó, muốn cho đối tượng đó có kích thước như nhau trong cùng một cỡ ảnh, khi dùng một ống kính tê-lê, ta tự nhiên lùi ra xa gấp 4 lần khoảng cách khi ta dùng ống kính góc rộng (đối với ví dụ trên - NH), vì vậy mà ta thu được hai hình ảnh rất khác nhau: Trong ảnh thu được bằng ống kính tê-lê, tin cảnh không được khuếch đại bằng hậu cảnh như ảnh thu được với ống kính góc rộng.
Với ống kính góc rộng bao quát một thị trường 85 độ - rộng hơn rất nhiu thị trường của con mắt ta khi để yên - phối cảnh có vẻ bị thái quá ở rìa bức ảnh, nhất là khi tiêu cự quá ngắn đối với cỡ kiểu chụp. Trong thực tế, sự hội tụ của các đường song song nằm ngang đu hết sức giống nhau ở tất cả các ống kính, miễn là ta không thay đổi điểm nhìn.
Ta rút ra một số điu bổ ích như sau: một ống kính, bất kể tiêu cự như thế nào, đu có thể sử dụng nhằm hai mục đích khác nhau:
- Hoặc là để làm cho ảnh của đối tượng chính có một kích thước nhất định;
- Hoặc là để làm cho toàn bộ hình ảnh có một phối cảnh riêng, và có một quan hệ khác nhau giữa các lớp cảnh.
Xét theo điểm đó, ta thấy bao giờ ít nhất cũng có hai cách sử dụng khác nhau đối với mỗi ống kính:
- Ống kính tiêu cự dài trước hết dùng để làm to ra ảnh của đối tượng ở quá xa (chi tiết kiến trúc chẳng hạn), nhưng đồng thời nó cũng làm giảm tỷ lệ tương đối giữa các lớp cảnh.
- Ống kính góc rộng trước hết dùng để khuôn hình được đủ đối tượng khi ta không còn có chỗ lùi thêm nữa (chụp trong nhà hay ở một dãy phố hẹp), nhưng nó được dùng từ một điểm nhìn gần để làm tăng thêm hiệu quả hội tụ của các đường nằm ngang song song và làm tăng tỷ lệ tương đối giữa các lớp cảnh.
Một khái niệm khác nữa mà chúng ta có thể nhắc lại với nhau là khu vực nét sâu: với cùng một độ mở chế quang như nhau, ống kính tiêu cự dài sẽ cho một khu vực nét sâu ngắn hơn so với ống kính góc rộng...
Nếu như ta chỉ có một ống kính, ống kính tiêu cự trung bình, thì sao? Thì ta tự nhủ rằng Cartier-Bresson nhiu khi cũng ở vào hoàn cảnh như vậy, và hành động theo hoàn cảnh đó vậy.
+ Chọn góc nhìn là yếu tố cơ bản trong việc chụp ảnh

5. Đường nét và nhịp điệu
Người phương Đông, nhất là người Nhật Bản có biệt tài chỉ dùng vài đường nét đơn sơ mà gợi lên được bất cứ vật thể gì, bất cứ động tác gì không kém gì một bức tranh cổ điển. Nói như vậy có nghĩa đường nét thực sự là cái xương sống của hình ảnh.
Đối tượng có một số đường nét cơ bản, tức là không thể tránh được và không thể thiếu được: những đường nét bao bọc các vật thể, tách biệt các sắc độ và các sắc thái của các mầu, tách biệt phần tối với phần sáng. Đường chân trời tách biệt phần gì thuộc v đất và phần gì thuộc v trời, và dưới một hình thức tượng trưng, gợi lên cái vô cực bởi vì mọi đường nằm ngang của đối tượng đu qui tụ vào đấy.
Những đường khác, đường thẳng, đường cong hay đường gãy khúc, thẳng đứng, xiên hay nằm ngang, đường đơn giản hay phức tạp, bao giờ cũng có một vai trò quan trọng trong hình dáng của hình ảnh.
- Đường cong gợi lên sự mm mại, dịu dàng, sự đầy đặn, sự uyển chuyển, sự hoà hợp, một cái gì thuộc v nữ giới.
- Đường thẳng gợi ngay cho ta sự mạnh mẽ, kiên quyết, cứng rắn.
- Đường gãy khúc biểu hiện sự mờ rối, hỗn độn.
Phương hướng của các đường cũng là một yếu tố cơ bản, nhất là khi nó được lặp đi lặp lại nhiu lần:
- Đường nằm ngang lặp đi lặp lại nhiu lần gợi cho ta vẻ yên tĩnh, nghỉ ngơi: mặt nước phẳng lặng của ao hồ, cánh đồng thẳng cánh cò bay.
- Đường thẳng đứng lặp đi lặp lại nhiu lần, như những chiếc cột trong nhà thờ, những thân cây trong một khu rừng gợi cho ta những cảm giác v cái vĩ đại lớn lao, sự cao quí tinh thần, v.v...
- Các đường chéo góc hội tụ vào nhau không thể gợi cho ta cái gì khác là sự xa vời, vô tận...
Nhà nhiếp ảnh chỉ cần quan sát sơ quacũng nhận thấy rõ vai trò tượng trưng của các đường nét. Ngoài ra, người chụp còn phải nắm được nhịp độ gây nên bởi sự lặp đi lặp lại của các đường. Như trong một bản nhạc, nhịp độ có thể đu đu, buồn tẻ, hoặc dồn dập, giật giọng: việc lặp đi lặp lại những yếu tố giống nhau tập hợp lại theo một cách nào đó, tạo ra một thứ "đời sống nội tâm" cho hình ảnh, gần như một "động tác vĩnh cửu"... như hàng dương liễu lẫn dần bên bờ sông.
Khi ta ngắm một bức ảnh tốt (trong nguyên văn-NH, theo bác NTL phải dịch là bức ảnh đẹp), con mắt của ta được các đường nét hướng dẫn để phân tích hình ảnh, từ chủ đ chính là nơi con mắt bị giữ lại trước tiên, rồi lần lượt đến tất cả mọi điểm của bức ảnh. Đó là vai trò mà người chụp ảnh phải đem lại cho các đường nét trong bố cục.

6. Mảng tối và mảng sáng
Ảnh chỉ là mặt chiếu một mặt phẳng hai chiu cả một thế giới ba chiu, một thế giới có chiu sâu, có nhiu tầng lớp khác nhau, từ mắt ta đến tận chân trời, đến vô cực.
Để cho từ mặt phẳng đó chúng ta có được cảm giác v hình khối, v chiu sâu, riêng phối cảnh hình học không đủ. Phối cảnh còn cần kèm theo sự "biến điệu" của các lớp cảnh khác nhau, v mặt tương phản và v mặt ánh sáng. trong một phong cảnh chẳng hạn, không khí đượm hơi nước và bụi làm cho các lớp cảnh ở xa bị chìm trong một làn sương mờ trên đó nổi bật lên những lớp cảnh ở gần hơn: hiệu ứng đó gọi là phối cảnh không trung.
Những bức ảnh chụp trên mặt trăng làm cho ta thấy lạ không phải chỉ do trên mặt trăng gồ gh, tương phản, mà còn là vì những tảng đá ở xa nhất cũng nổi lên sắc nét trên bầu trời đen như những tảng đá ở gần. Trên mặt đất, hiện tượng các lớp cảnh càng xa càng mờ và nhạt dần là do hiệu ứng của việc chiếu sáng. Ánh sáng, tuỳ theo hướng chiếu của nó, làm cho các lớp cảnh của đối tượng nổi lên một cách khác nhau và làm cho hình dáng sắc hoặc dịu một cách khác nhau.
- Ánh sáng trực diện làm cho mọi hình khối đu chìm như nhau do đó hình ảnh bị dẹt.
- Trái lại ánh sáng chếch 45 độ so với đối tượng làm cho hình dáng và hình khối được nổi lên. Đó là loại ánh sáng cổ điển.
- Ánh sáng bên, đi lướt qua mặt tin cảnh, làm nổi bật một cách hết sức mạnh mẽ cấu trúc và chất liệu của các vật thể: đá, gỗ, vải cho ta thấy cấu trúc đặc biệt của chúng.
- Ánh sáng ngược làm nổi vệt các vật thể nhưng chỉ thể hiện chúng thành những bóng đen.
Với một loại ánh sáng nhất định, chiếu sáng đối tượng theo một góc độ nào đó, ta có cả một loạt bóng tối rất có ý nghĩa. Bóng tối kéo dài trong bức tranh mùa đông hay cảnh trời chiu gợi lên một bầu không khí khác hẳn với bóng ngắn và gay gắt của mặt trời ban trưa. Bóng tối, những điểm sáng đối lập, giữ một vai trò nổi bật trong hình dáng của hình ảnh.
Sự tương phản của ánh sáng cũng quan trọng không kém gì hướng chiếu của nó. Chính sự tương phản này tạo nên bầu không khí của một phong cảnh, một tĩnh vật, một chân dung. Ta hãy so sánh ánh sáng dịu ở các nước min cực bắc với ánh sáng gắt ở các nước nhiệt đới và ánh sáng trong sáng vào mùa xuân hay mùa thu ở các nước ôn đới.
Từng vật thể nằm trong khuôn hình, ở xa hay gần máy ảnh, ở vào những hướng khác nhau đối với hướng của ánh sáng, sẽ có một sắc độ xám khác nhau trên hình ảnh.
Vẻ đẹp của một bức ảnh đen-trắng là bằng cả một loạt các sắc độ xám khác nhau, từ trắng toát đến đen kịt, gợi lên cho ta những chất liệu khác nhau, những hình dáng khác nhau của các yếu tố tạo nên một thể hoàn chỉnh.

7. Màu sắc
Một yếu tố của hình ảnh không được coi nhẹ trong lĩnh vực nhiếp ảnh ngày nay là màu sắc. Cố nhiên, mọi người có quyn thích ảnh đentrắng, nhưng trong thập kỷ 70 này, đa số các bức ảnh chụp là ảnh màu!
Quá trình thực hành lâu năm ảnh màu đã dạy cho chúng ta, người chụp nghiệp dư lẫn nhà chuyên nghiệp một điu: màu sắc chỉ là một trong nhiu yếu tố của hình ảnh mà thôi. Riêng màu sắc không thôi, ít khi nó thu hút được sự chú ý của người xem. Nói cách khác là: một bức ảnh đen- trắng không có giá trị gì thì khó lòng mà có giá trị hơn nếu là ảnh màu. Thế nhưng, ta cần phải biết xem màu sắc có thể đem lại những gì cho hình ảnh.
Trước hết, màu sắc, riêng bản thân nó cho phép ta phân biệt được hai mảng của hình ảnh có thể sẽ bị lẫn vào với nhau trên ảnh đen trắng. Cụ thể là, ánh sáng trực diện là điu ngăn cấm khi chụp ảnh đen-trắng, lại có thể cho ta những bức ảnh màu khả quan nếu đối tượng chụp có nhiu màu sắc khác nhau.
Giá trị của một bức ảnh màu là ở chỗ nào? giá trị của nó là ở những yếu tố làm cho bức ảnh - bất kỳ là ảnh đen-trắng hay màu - trở thành một bức ảnh tốt (nguyên văn-NH), và hơn nữa, ở một sự hài hoà nào đó nối màu sắc này với màu sắc kia, ở những sắc thái tế nhị của cánh hoa giữa màu xanh xum xuê của lá cây, v.v... Do vậy, khi chụp ảnh màu, ngoài việc sử dụng đường nét, hình khối và ánh sáng ra, lại còn cần phải xét đến các sắc thái để tạo nên một tổng thể hoà hợp v màu.
Điu mà chúng ta quan tâm trước hết là giá trị mà màu sắc có thể đem lại cho hình ảnh khi màu đó không dữ dội. Những mảng tường rêu phong của một ngôi nhà cổ, một cành cây đượm sương đêm mà chúng ta nghĩ là có thể thể hiện được một cách trung thực lên ảnh đentrắng, trong ảnh màu lại có những sắc thái kín đáo và một vẻ tinh tế mê hồn. Cũng vậy, một bông cẩm chướng đỏ sẽ nổi bật trên ngực áo màu xám như một tiếng kèn đồng vang vang. Đúng vậy, ta có thể nói đến sự hoà hợp và sự tương phản của các màu sắc, và đi sâu vào các lĩnh vực đó để thể hiện được những bức ảnh màu ngày càng đẹp.

Toát  yếu: Những yếu tố tạo nên hình ảnh
- Cách đ cập đến đối tượng
- Giây phút bấm máy
- Khuôn hình
- Góc nhìn và phối cảnh
- Thị trường bao quát
- Đường nét và nhịp độ
- Bóng tối và ánh sáng
- Màu sắc.
Không nhất thiết phải là một nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp để có thể gặp được những điu lý thú và cũng rất khó khăn trong lĩnh vực nhiếp ảnh, chỉ cần bạn là một người ham mê thực hành nhiếp ảnh là sau một thời gian nhất định bạn sẽ nhận thấy minh “kiệt sức” cả vphương diện kỹ thuật cũng như sáng tạo. Đây là một hiện tượng hết sức bình thường khi bạn chuyển tiếp từ một giai đoạn này sang một giai đoạn khác trong nhiếp ảnh. Vậy thì trong nhiếp ảnh có tất cả bao nhiêu giai đoạn? Chúng ta hãy nghe Jean-Claude Lemagny, một trong những người nhiệt thành nhất với “Nhiếp ảnh sáng tạo”, phân biệt 3 giai đoạn trong tiến trình phát triển của một nghệ sĩ nhiếp ảnh:
1. Đầu tiên là những năm tháng học hỏi mà các yếu tố kỹ thuật chiếm hết thời gian và sức lực của bạn. Ta thường tìm cách bắt chước tác phẩm của các bậc thầy nổi tiếng trong nhiếp ảnh, cố tìm hiểu nhữung bí ẩn làm nên thanh công, đọc nghiến ngấu những
bài trả lời phỏng vấn của họ.
2. Tiếp theo là đến giai đoạn chín muồi hơn mà ta tin tưởng chắc chắn là đã hoàn thiện v kỹ thuật. Ta sẽ chán ngấy những ai chỉ nói v nhiếp ảnh qua các loại máy ảnh, ống kính…Trong giai đoạn thứ hai này chỉ có yếu tố thẩm mỹ là điu quan trọng nhất, những khái niệm sẽ thay thế cho các cuộc tranh luận hời hợt. Điu nguy hiểm nhất là “tự tin” rằng minh đã đạt tới đỉnh cao nhất trong nhiếp ảnh, nó hoàn toàn sai lầm đơn giản bởi vì còn có một giai đoạn thứ 3 nữa.
3. Giai đoạn cuối cùng này chính là lúc ta nhận thấy rằng để có thể giải quyết hoàn hảo những vấn đ trong thẩm mỹ (cái đẹp) thì ta lại phải quay v với kỹ thuật. Nói tóm lại chính nhiếp ảnh gia sẽ tự tìm kiếm lấy các phương tiện kỹ thuật để hoàn thiện công việc sang tác của mình. Giống như một chuyên gia v ảnh đen trắng sẽ đi tìm một loại hóa chất thỏa mãn tất cả các tong xám mà anh ta tìm kiếm. Đó chính là Depardon, người sử dụng từng than máy và ống kính káhc biệt cho mỗi một thể loại hình ảnh hay là Jeff Wall, người trưng bày các tác phẩm của minh trong một “hộp sáng”. Đó cũng chính là những người chuyển sang sử dụng “Moyen Format” hay các hộp tối (Large Format), lý do không chỉ đơn giản nằm trong độ sắc nét mà nó còn vì khoảng cách, tiếp cận. Đó chính là một nhiếp ảnh gia v sắc mầu đi tìm kiếm và thử nghiệm tất cả các loại phim, các loại giấy để tìm cho riêng minh một “tông”…
Trước kỹ nguyên của kỹ thuật số thì điu này đã rất chính xác (theo ý kiến cá nhân của NTL) và bây giờ điu ấy lại thêm một lần nữa được chứng minh. Thực tế cho thấy có rất nhiu nhiếp ảnh gia tìm hiểu những “mánh” kỹ thuật v máy quét phim, máy in, một chiếc dCam hay dSLR…Những nhiếp ảnh gia này đã nhận thấy rằng họ cần nắm vững các kỹ thuật mới để có thể hành ngh. Bạn không nên tin vào những nghệ sĩ ru rú trong “ổ” của minh nhé. Đa số các nhiếp ảnh gia đu đi xem triển lãm, quan sát những người khác làm việc, lấy cảm hứng, so sánh, tìm thông tin v một kỹ thuật in ảnh, khuôn hình, kết quả chung cuộc…Với sự xuất hiện của kỹ thuật số thì chưa bao giờ các nhiếp ảnh gia có được trong tay những khả năng v kỹ thuật đa dạng như thế cả. V mặt tinh thần thì chưa bao giờ kỹ thuật lại gắn bó mật thiết đến thế với cái đẹp. Với một điu kiện là không khuôn hẹp kỹ thuật lại trong việc khoe khoang thiết bị hay tranh luận như các nhà…nghiên cứu khoa học. Nhất định là không thể như thế! Yếu tố kỹ thuật là một câu hỏi cực kỳ quan trọng mà ta có thể lấy ví dụ khi muốn tạo một bản in mầu bằng máy in phun mực (liệu các nhà sưu tập có mua chúng không?) hay lựa chọn cách lưu trữ ảnh kỹ thuật số (chọn thiết bị nào? Liệu các CD, DVD có thể đọc được trong 30 năm nữa không?)
(theo bài viết của Jean-Christophe Béchet)

8. Bố cục của hình ảnh
Bố cục, tức là làm cho các bộ phận khác nhau hợp thành một thể thống nhất. Bức ảnh là sự hợp nhất của nhiu yếu tố khác nhau tuỳ theo từng trường hợp, chân dung, phong cảnh hay cảnh sinh hoạt v.v...Trong mọi trường hợp, bao giờ cũng có một yếu tố nổi bật, chủ đchính tạo nên lý do tồn tại của bức ảnh đó. Trong nhiu trường hợp, ảnh còn chứa đựng nhiu yếu tố phụ khác (những yếu tố này có thể trở thành yếu tố chính trong một bức ảnh khác), nhưng chúng chỉ đóng vai trò làm tôn yếu tố chính lên mà thôi. Chúng nói lên một cảnh huống nào đó, một thời điểm nào, một tầm vóc nào đó trong không gian...
Bố cục một bức ảnh là đặt yếu tố phụ trong vị trí so sánh với yếu tố chính sao cho yếu tố này bao giờ cũng nổi bật. tuy nhiên ở mỗi thể loại có những cách bố trí khác nhau. Khi chụp tĩnh vật, ta có thể di chuyển vị trí của vật này, vật kia. Dùng ánh sáng và bóng tối, ta cũng có khả năng tạo nên một tổng thể hoà hợp. Chụp chân dung cũng vậy. Nhưng chụp phong cảnh thì người chụp lại không có những khả năng ấy. Nói như vậy có phải là người chụp phải bó tay và không thể bố cục hình ảnh theo ý muốn của mình không? Không phải. Người chụp có khả năng khuôn hình, chụp đối tượng ở gần hay xa, chọn điểm nhìn, hướng máy so với hướng ánh sáng...
Nói như vậy để chứng tỏ là, trong mọi trường hợp, với mọi đối tượng-nếu ta có thời gian-người chụp đu có thể tạo ra được một hình ảnh bố cục tốt. Bằng việc sử dụng có suy tính hay theo bản năng các yếu tố khác nhau, bố cục hình ảnh thực sự là một nghệ thuật. Một số người coi bố cục là một kỹ thuật. Theo chúng tôi, người ta không thể "giảng dạy" việc bố cục hình ảnh bởi vì có quá nhiu yếu tố tham gia vào đó: mỗi yếu tố riêng nó có thể là lý do tồn tại của bức ảnh.

Muốn đi dến chỗ bố cục được một bức ảnh "cổ điển", một hình ảnh có cơ cấu tốt, ta có thể nghĩ đến một vài điểm đáng chú ý sau đây:
- Sự thống nhất của đối tượng, mà chúng ta đã nói đến.
- Tìm kiếm một sự không đối xứng nào đó.
- Cảm giác v chiu sâu
- Sự hài hoà giữa chất liệu của vật thể với ánh sáng chiếu vào chúng, giữa các màu sắc cạnh nhau v.v...
Tìm kiếm một sự không đối xứng
Nên đặt mô tip chính ở đâu? xin trả lời "ở bất kỳ đâu cũng được, trừ ở điểm giữa bức ảnh". Chủ đ chính ở giữa của bức ảnh thì hình ảnh nhiu khi có vẻ tầm thường, không sức sống. Mỗi bức ảnh thực vậy có những điểm mạnh mà mắt ta hay nhìn vào.
Tuy không nêu nên thành một định luật cơ bản, song ta nhận xét thấy rằng những "điểm mạnh" ấy thường hay rơi vào điểm giao tiếp giữa các đường tưởng tượng chi bức ảnh ở một phần ba. Đặt chủ đ chính vào một trong 4 điểm mạnh ấy ta sẽ có một bố cục không đối xứng.
Khi trong ảnh phong cảnh có đường chân trời, ta chớ nên để đường cơ bản ấy chia đôi hình ảnh ở giữa. Đặt như vậy thì phần trời và phần đất (hoặc nước) ngang nhau, và ta sẽ có một bố cục rất tầm thường, người xem không biết ta định giới thiệu những đám mây trên trời, hay những đợt sóng trên biển. Trái lại, nếu ta chụp cảnh trời lúc hoàng hôn rất đẹp, ta nên đặt đường chân trời ở khoảng cách một phần ba phía dưới bức ảnh để cho phần trời quan trọng hơn. Nhưng nếu ta chụp một cảnh đồi phủ tuyết với đường nét đẹp đẽ dưới bầu trời mùa đông tẻ nhạt thì ta chỉ nên dành cho một phần ba bức ảnh ở phía trên mà thôi.
bố cục không đối xứng, dựa vào việc sử dụng một điểm mạnh, làm nổi bật yếu tố chính. Con mắt người xem sẽ đi từ điểm chính đó đến các điểm khác trong bức ảnh.

Cảm giác v chiu sâu
Cảm giác v chiu sâu, sự phân cách giữa các lớp cảnh, mà ta có thể thay đổi bằng cách chọn điểm nhìn, bằng phối cảnh không trung, bằng khu vực nét sâu, bằng ánh sáng, góp một phần quan trọng vào thành công của bức ảnh. Ống kính máy ảnh có thể dễ dàng cung cấp cho con mắt ta khi nhìn vào ảnh cảm giác v không gian ba chiu. Nhờ đó mà các vật thể không bị bẹp dí, mà cái nọ trước cái kia như trong thực tế.
Sự hài hoà
Sự hài hoà là cái chất xi măng có khả năng gắn bó các yếu tố rời rạc của một bức ảnh lại với nhau... Sự hài hoà, đó có thể là những mối quan hệ được tạo ra giữa các vật thể trong một bức tranh, cái nọ gọi cái kia.
- Sự hài hoà v đối tượng: biển, trời, bãi cát, chim hải âu...
- Sự hài hoà của đường nét: đường chân trời, các lớp đất trải dài, bãi bể...
- Sự hài hoà giữa các sắc độ và mảng khối: đồi núi, cây...
- Sự hài hoà màu sắc: hoa mào gà trên cánh đồng...
Sự hài hoà là tất cả những yếu tố trên đây mà người chụp phải biết cách nhìn và ghi lại đúng lúc.

----------------------------------

IV-9, NHỮNG QUY TẮC, ĐỊNH LUẬT NHIẾP ẢNH

1. Quy tắc f/16
Trong trường hợp máy đo sáng bị hỏng , ta có thể áp dụng quy tắc f/16 để chụp. Quy tắc này được phát biểu như sau:
Với ánh sáng thuận của một ngày nắng ráo, trong khoảng thời gian 1h sau khi mặt trời mọc và trước 1h khi mặt trời lặn. Đồng thời chủ đ có độ tương phản trung bình thì khẩu độ chuẩn luôn là f/16, tốc độ chập tương đương với ISO đang sử dụng.
( tốc độ chập tương đương với ISO đang sử dụng: ví dụ ISO 400 thì tốc độ là 1/500, cũng giống như quy tắc v tốc độ an toàn tối thiểu).
Khẩu độ sẽ điu chỉnh tùy theo từng trường hợp cụ thể
- Trời nắng rực không mây, bóng đổ đen xậm sử dụng f/16.
- Trời nhiu mây, bóng đổ dịu sử dung f/11.
- Trời sáng nhưng mây mù, không có bóng đổ sử dụng f/8.
- Trời mây mù âm u hay có sương mù hoặc mưa phùn sử dụng f/5.6
- Trong bóng dâm dười trời nắng sử dụng f/5.6
- Trời mù mịt, sương mù dày đặc, mưa dầm, trời tối sầm sử dụng f/4
...
Ghi nhớ:
+ Nếu ánh sáng tạt ngang mở thêm 1 khẩu độ.
+ Với ánh sáng ngược, mở lớn thêm 2 khẩu độ
+ Nếu muốn giữ đổ bóng đen thì giữ nguyên
Còn rất nhiu các tình huống ánh sáng phức tạp khác, nhờ các Bác có kinh nghiệm gợi ý thêm.

2. Quy tắc tốc độ an toàn tối thiểu
Chắc Bác thanhvit chưa đọc kỹ bài viết của em v Dof rồi. Anh Longpt cũng đã nói một cách cô đọng nhất v quy tắc này. Nhưng dù sao để dễ hiểu nhất cho mọi đối tượng, tiện đây em cũng nói đại ý cái quy tắc tốc độ an toàn tối thiểu (nói chính xác hơn là quy tắc tốc độ an toàn) được phát biểu như sau:
Trong trường hợp chụp chỉ cầm bằng tay, để đảm bảo cho hình ảnh rõ nét, tránh bị rung. Tốc độ được lựa chọn tối thiểu là nấc
tốc độ nhanh hơn và gần với tiêu cự ống kính tại thời điểm chụp nhất. Tốc độ này được gọi là tốc độ an toàn. Tốc độ chụp thấp
n, hình ảnh rõ nét bắt đầu phụ thuộc vào sự may rủi.
Ví dụ: Nếu 35mm thì 1/40; 50mm thì chọn 1/60; 105mm -135mm thì chọn 1/125; 135mm - 200mm thì chọn 1/160; 200mm - 300mm thì chọn 1/250; 400mm - 500mm thì chọn 1/500...
Chính vì vậy mà ống kính góc rộng cầm tay chụp đỡ bị nhòe hình nhất. Nhưng dù sao chụp dưới 1/15 cũng phải bấm nhiu phát mới chắc ăn được.
Em cũng xin nói thêm, các nhiếp ảnh gia cho rằng: Nếu cầm máy vững thì có thể chụp dưới tốc độ an toàn đến 3 nấc.
Bài học đầu tiên v môn này, em thấy rất ấn tượng. Khi ở nhà hàng xóm, ông bố dạy đồng chí con mỗi tay cầm nửa viên gạch, giơ song song ngang vai, không được cử động... Và đến 01 tháng sau mới được cầm vào cái máy ảnh.

3.Những nguyên tắc bố cục cổ điển (Tỷ Lệ Vàng)
- Đường chân trời ở 1/3 hoặc 2/3 chiu cao bức ảnh.
- Mỗi khuôn hình chỉ có một điểm mạnh.
- Điểm mạnh này không đặt giữa ảnh mà phải ở toạ độ 1/3 rộng x 1/3 cao.
- Hướng ánh mắt người xem từ ngoài vào trong bức ảnh.
- Tận dụng nét lượn chữ S nếu có trong bối cảnh.
Bài sau: Định luật xa gần và cách áp dụng
u ý:
- Vùng bao phủ "loanh quanh" gần những điểm mạnh gọi là vùng mạnh, thưởng là vùng nối hai điểm mạnh.
- Đường thẳng hay cong xuất phát từ đỉnh, cạnh đến cạnh đối diện nếu đi qua điểm mạnh hoặc chia cạnh ở vị trí 1/3 gọi là đường mạnh, như mấy cái đường thẳng ở dưới
Đấy thực ra cũng là một cách tư duy thêm của dân toán . Ví dụ: Đường kính của đường tròn là dây cung lớn nhất, vậy chúng ta có thể tư duy là vậy các hình khác có đường kính không, nếu có thì đó là gì. Theo cách định nghĩa đó ta cũng có thể gọi cạnh dài nhất của hình tam giác là đường kính hay đường chéo của hình chữ nhất là đường kính của hình chữ nhật...

4. Luật xa gần (hay còn gọi là định luật viễn cận)
Được phát biểu đại khái như sau: Những tia nhìn từ mắt tới các vật nếu để xuyên qua một mặt phẳng sẽ đánh dấu trên đó các hình ảnh giống như mắt chúng ta nhìn thấy. Do góc nhìn của mắt ta tới vật tăng hay giảm còn tuỳ theo vật đó ở gần hay xa mắt. Nên khi xuyên qua mặt phẳng, nó sẽ đánh dấu lên đấy một hình ảnh nhỏ hay to, tương ứng với độ xa gần của vật.
Em không biết các hoạ sĩ học như thế nào chứ riêng v cái Luật xa gần này đối với em (mặc dù là dân Toán) cũng thấy khó vật vã . Áp dụng cho nhiếp ảnh nó có vẻ đơn giản hơn, các bạn chỉ nhớ quy luật này như sau: càng gần càng to càng xa càng bé, càng gần càng rõ càng xa càng mờ
Nếu ai càng đứng gần ta ta càng nhìn rõ màu da, sắc thịt, tóc, quần áo... có nghĩa càng gần càng rõ nét, trong khi ống kính lại rõ nét khi mở khẩu độ lớn, ta phải dùng cách chiếu sáng hoặc có tin cảnh để tạo xen kẽ mờ rõ làm tăng chiu sâu cho ảnh.

Cùng những người có kích thước như nhau, càng gần càng thấy to càng xa mắt ta trông càng bé, nên để tăng chiu sau cho ảnh khi chụp hàng dọc ta chụp chéo để nhìn rõ hàng người, người đầu hàng sẽ to người cuối hàng sẽ bé, ảnh sẽ có chiu sâu...